< Ezekieli 20 >

1 Mwaka-inĩ wa mũgwanja, mũthenya wa ikũmi wa mweri wa gatano, athuuri amwe a Isiraeli magĩũka gũtuĩria ũhoro harĩ Jehova, nao magĩikara thĩ hau mbere yakwa.
Ngày mười tháng năm, vào năm thứ bảy kể từ khi Vua Giê-hô-gia-kin bị giam giữ, một vài trưởng lão Ít-ra-ên đến cầu vấn Chúa Hằng Hữu. Họ ngồi trước mặt tôi, chờ Ngài giải đáp.
2 Hĩndĩ ĩyo kiugo kĩa Jehova gĩkĩnginyĩrĩra ngĩĩrwo atĩrĩ:
Rồi Chúa Hằng Hữu truyền sứ điệp này cho tôi:
3 “Mũrũ wa mũndũ, arĩria athuuri a Isiraeli, ũmeere atĩrĩ, ‘Mwathani Jehova ekũũria atĩrĩ: Anga mũũkĩte gũtuĩria ũhoro harĩ niĩ? Ti-itherũ o ta ũrĩa niĩ ndũũraga muoyo-rĩ, ndingĩreka mũtuĩrie ũhoro harĩ niĩ, ũguo nĩguo Mwathani Jehova ekuuga.’
“Hỡi con người, hãy nói với các lãnh đạo Ít-ra-ên: ‘Đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: Sao các ngươi dám đến cầu vấn Ta? Thật như Ta hằng sống, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán, Ta sẽ chẳng trả lời đâu!’
4 “Nĩũkũmatuĩra ciira? Nĩũkũmatuĩra ciira, wee mũrũ wa mũndũ? Nĩ ũndũ ũcio marũithie, ũmeere maũndũ marĩ magigi marĩa meekagwo nĩ maithe mao,
Hỡi con người, con hãy buộc tội và xét xử chúng nó. Hãy nói cho chúng biết tội lỗi ghê tởm của tổ phụ chúng là thế nào.
5 ũmeere atĩrĩ, ‘Mwathani Jehova ekuuga ũũ: Mũthenya ũrĩa ndethuurĩire Isiraeli-rĩ, nĩndehĩtire harĩ njiaro cia andũ a nyũmba ya Jakubu njoete guoko na igũrũ, na ngĩmeguũrĩria kũu bũrũri wa Misiri. Ngĩmeera njoete guoko na igũrũ atĩrĩ, “Niĩ nĩ niĩ Jehova Ngai wanyu.”
Hãy nói với chúng về sứ điệp của Chúa Hằng Hữu Chí Cao rằng: Ngày Ta chọn Ít-ra-ên—Ta đã bày tỏ chính mình Ta cho dòng dõi nhà Gia-cốp trong nước Ai Cập—Ta đưa tay thề rằng, Ta, Chúa Hằng Hữu, sẽ là Đức Chúa Trời của chúng.
6 Mũthenya ũcio ndehĩtire ngĩmeera atĩ nĩngamaruta bũrũri wa Misiri, ndĩmatware bũrũri ũrĩa niĩ ndĩmacarĩirie, bũrũri ũrĩ bũthi wa iria na ũũkĩ, bũrũri mũthaka gũkĩra mabũrũri mothe.
Ta đã thề rằng Ta sẽ đem chúng ra khỏi nước Ai Cập, đưa đến xứ Ta chọn cho—là xứ chảy tràn sữa và mật, là xứ tốt nhất trong mọi xứ.
7 Na niĩ ngĩmeera atĩrĩ, “O ũmwe wanyu-rĩ, nĩatigane na mĩhiano ĩyo mĩũru mũikaraga mũcũthĩrĩirie, na mũtige gwĩthaahia na mĩhianano ĩyo ya bũrũri wa Misiri. Niĩ nĩ niĩ Jehova Ngai wanyu.”
Rồi Ta phán với chúng: ‘Mỗi người trong các ngươi, hãy bỏ lòng ham muốn thần tượng. Đừng để thần linh Ai Cập làm nhơ bẩn mình, vì Ta là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của các ngươi.’
8 “‘No rĩrĩ, nĩmanemeire, makĩaga gũũthikĩrĩria; matiatiganire na mĩhiano ĩyo mĩũru ĩrĩa maikaraga macũthĩrĩirie, o na matiatiganire na mĩhianano ĩyo ya bũrũri wa Misiri. Nĩ ũndũ ũcio ngiuga nĩngũmaitĩrĩria mangʼũrĩ makwa, na ndĩĩrute marakara nao marĩ o kũu bũrũri wa Misiri.
Nhưng chúng nó phản nghịch, không chịu nghe Ta. Chúng không xa lìa lòng ham mê thần tượng, không từ bỏ các thần Ai Cập. Ta nói Ta sẽ trút cơn giận Ta lên chúng, trị chúng cho hả cơn giận của Ta khi chúng còn ở Ai Cập.
9 No ngĩĩka ũndũ, nĩ ũndũ wa rĩĩtwa rĩakwa nĩguo rĩtigathaahio maitho-inĩ ma ndũrĩrĩ icio maatũũranagia nacio, o icio cionire ngĩĩonithania kũrĩ andũ a Isiraeli na ũndũ wa kũmaruta bũrũri wa Misiri.
Nhưng Ta đã không làm vậy, vì Ta phải bảo vệ Danh Ta. Ta không để Danh Ta bị xúc phạm giữa các nước chung quanh, là các dân đã thấy Ta bày tỏ chính mình Ta khi đem Ít-ra-ên ra khỏi Ai Cập.
10 Nĩ ũndũ ũcio ndaamatongoririe ngĩmaruta bũrũri wa Misiri, ngĩmarehe werũ-inĩ.
Vì vậy, Ta đã mang chúng ra khỏi Ai Cập và đem chúng vào hoang mạc.
11 Nĩndamaheire kĩrĩra kĩa watho wakwa wa kũrũmĩrĩrwo na ngĩmamenyithia mawatho makwa, nĩgũkorwo mũndũ ũrĩa ũrĩmaathĩkagĩra nĩagatũũrio nĩmo.
Ta ban cho chúng sắc lệnh và luật lệ Ta, để người nào vâng giữ sẽ được sống.
12 Ngĩcooka ngĩmahe Thabatũ ciakwa irĩ kĩmenyithia gatagatĩ gakwa nao, nĩgeetha mamenyage atĩ niĩ Jehova nĩndamatuire atheru.
Ta cũng ban cho chúng ngày Sa-bát để nghỉ ngơi như dấu hiệu giữa Ta và chúng. Ngày đó nhắc nhở chúng nhớ rằng Ta là Chúa Hằng Hữu, Đấng đã thánh hóa chúng.
13 “‘No rĩrĩ, andũ acio a Isiraeli nĩmanemeire kũu werũ-inĩ. Matiarũmĩrĩire kĩrĩra kĩa watho wakwa wa kũrũmĩrĩrwo, na nĩmaregire mawatho makwa, o na gũtuĩka mũndũ ũrĩa ũmathĩkagĩra nĩagatũũrio nĩmo, na magĩthaahia Thabatũ ciakwa biũ. Nĩ ũndũ ũcio niĩ na niĩ ngiuga atĩrĩ, nĩngũmaitĩrĩria mangʼũrĩ makwa, ndĩmaniinĩre kũu werũ-inĩ.
Nhưng dân tộc Ít-ra-ên đã bội phản Ta, chúng không vâng giữ sắc lệnh Ta trong hoang mạc. Chúng khinh thường điều lệ Ta dù điều đó đem lại sự sống cho chúng. Chúng còn vi phạm ngày Sa-bát Ta. Vì thế, Ta nói Ta sẽ trút cơn giận Ta lên chúng và tuyệt diệt chúng trong hoang mạc.
14 No ngĩĩka ũndũ nĩ ũndũ wa rĩĩtwa rĩakwa, nĩguo rĩtigathaahio maitho-inĩ ma ndũrĩrĩ icio cieyoneire na maitho ngĩmaruta kuo.
Nhưng một lần nữa, Ta đã rút tay lại để bảo vệ Danh Ta trước các dân tộc đã chứng kiến Ta đem chúng ra khỏi Ai Cập.
15 Ningĩ nĩndehĩtire njoete guoko na igũrũ o kũu werũ-inĩ, ngiuga ndikamakinyia bũrũri ũrĩa ndaamaheete, bũrũri ũrĩ bũthi wa iria na ũũkĩ, na bũrũri ũrĩa mwega gũkĩra mabũrũri mothe;
Trong hoang mạc Ta đã thề nghịch lại chúng. Ta thề sẽ không đưa chúng vào xứ Ta cho chúng, là xứ chảy tràn sữa và mật, là nơi tốt nhất trên mặt đất.
16 Ndeekire ũguo tondũ nĩmaregire mawatho makwa, na matiarũmĩrĩire watho wakwa wa kũrũmĩrĩrwo, na nĩmathaahirie Thabatũ ciakwa. Nĩgũkorwo ngoro ciao nĩcieheanĩte kũrĩ mĩhianano ĩyo yao.
Vì chúng khước từ luật lệ Ta, không vâng giữ sắc lệnh Ta, và vi phạm ngày Sa-bát. Lòng chúng hướng về các thần tượng của chúng.
17 No rĩrĩ, nĩndamaiguĩrĩire tha, ngĩaga kũmaananga kana kũmaniinĩra kũu werũ-inĩ.
Dù vậy, Ta nhìn chúng với lòng thương xót và không tuyệt diệt chúng trong hoang mạc.
18 Nĩnderire ciana ciao irĩ kũu werũ-inĩ atĩrĩ, “Tigai kũrũmĩrĩra irĩra cia watho wa maithe manyu, kana mũrũmĩrĩre mawatho mao, kana mwĩthaahie na mĩhianano yao.
Ta đã cảnh cáo con cháu chúng đừng noi theo đường lối của ông cha, đừng để thần tượng làm nhơ bẩn mình.
19 Niĩ nĩ niĩ Jehova Ngai wanyu; rũmagĩrĩrai kĩrĩra kĩa watho wakwa wa kũrũmĩrĩrwo, na mũmenyagĩrĩre mawatho makwa.
Ta đã phán với chúng: ‘Ta là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời các ngươi. Hãy noi theo sắc lệnh Ta, vâng giữ luật lệ Ta,
20 Ikaragiai Thabatũ ciakwa irĩ theru, nĩguo ituĩke kĩmenyithia gatagatĩ gakwa na inyuĩ. Hĩndĩ ĩyo nĩmũkamenya atĩ niĩ nĩ niĩ Jehova Ngai wanyu.”
và giữ ngày Sa-bát Ta nên thánh, vì đó là dấu hiệu để nhắc nhở các ngươi rằng Ta là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời các ngươi.’
21 “‘No rĩrĩ, ciana icio nĩcianemeire: Itiarũmĩrĩire kĩrĩra kĩa watho wakwa wa kũrũmĩrĩrwo, o na kana ikĩmenyerera kũrũmia mawatho makwa, o na gwakorwo mũndũ ũrĩa ũmathĩkagĩra nĩagatũũrio nĩmo, nĩciathaahirie Thabatũ ciakwa. Nĩ ũndũ ũcio ngiuga nĩngũciitĩrĩria mangʼũrĩ makwa, na ndũme marakara makwa maciũkĩrĩre kũu werũ-inĩ.
Nhưng con cháu các ngươi cũng vậy, cũng phản nghịch Ta. Chúng không tuân giữ sắc lệnh Ta và không theo luật lệ Ta, dù sự vâng lời đó đem lại sự sống cho chúng. Và chúng còn vi phạm ngày Sa-bát Ta. Vì vậy, một lần nữa Ta nói Ta sẽ trút cơn giận Ta lên chúng trong hoang mạc.
22 No nĩndagirĩrĩirie guoko gwakwa, na ngĩĩka ũndũ, nĩ ũndũ wa rĩĩtwa rĩakwa nĩguo rĩtigathaahio maitho-inĩ ma ndũrĩrĩ icio cieyoneire ngĩmaruta kuo.
Tuy nhiên, một lần nữa Ta đã rút sự đoán phạt Ta trên chúng để bảo vệ Danh Ta trước các dân tộc đã thấy năng quyền của Ta trong lúc Ta đưa chúng ra khỏi Ai Cập.
23 Ningĩ nĩndehĩtire harĩo njoete guoko na igũrũ kũu werũ-inĩ, ngiuga atĩ nĩngamahurunjĩra ndũrĩrĩ-inĩ, na ndĩmaharaganĩrie mabũrũri-inĩ,
Nhưng Ta đã thề nghịch lại chúng trong hoang mạc. Ta thề rằng Ta sẽ phân tán chúng giữa các nước,
24 tondũ matiathĩkĩire mawatho makwa, no nĩ kũrega maaregire kĩrĩra kĩa watho wakwa wa kũrũmĩrĩrwo na magĩthaahia Thabatũ ciakwa, namo maitho mao makĩĩrirĩria mĩhianano ya maithe mao.
vì chúng không tuân hành luật lệ Ta. Chúng còn chế giễu sắc lệnh Ta bằng cách xúc phạm ngày Sa-bát và hướng lòng về thần tượng của tổ phụ chúng.
25 Ngĩcooka ngĩmarekereria irĩra-inĩ iria itaarĩ njega, na mawatho marĩa matangĩmatũũria;
Ta đã phó chúng cho các tục lệ xấu và các luật lệ không đem lại sự sống.
26 nĩndarekire mathaahio nĩ ũndũ wa iheo ciao, irĩ igongona rĩa mwana o wothe wa irigithathi, nĩguo ndũme maiyũrwo nĩ guoya mũnene, na mamenye atĩ niĩ nĩ niĩ Jehova.’
Ta khiến chúng bị nhơ bẩn khi dâng lễ vật, Ta cho chúng thiêu con đầu lòng dâng cho thần linh—vì vậy Ta làm cho chúng kinh hoàng và nhắc nhở chúng rằng chỉ có Ta là Chúa Hằng Hữu.”
27 “Nĩ ũndũ ũcio, wee mũrũ wa mũndũ, arĩria andũ a Isiraeli, ũmeere atĩrĩ, ‘Mwathani Jehova ekuuga ũũ: Thĩinĩ wa ũndũ ũyũ o naguo, maithe manyu nĩmanumire na ũndũ wa kũndirika:
“Vì thế, hỡi con người, hãy nói với nhà Ít-ra-ên về sứ điệp của Chúa Hằng Hữu Chí Cao rằng: Tổ phụ các ngươi đã liên tục xúc phạm và phản bội Ta,
28 Rĩrĩa ndaamareehire bũrũri ũrĩa ndeehĩtire atĩ nĩngamahe, rĩrĩa moonire kĩrĩma o gĩothe kĩraihu kana mũtĩ o wothe warĩ na mathangũ, hau nĩho maarutĩire magongona mao, makĩruta magongona marĩa maatũmire ndakare, na makĩruta ũbumba wao ũrĩa mũnungi wega, o na magĩitanga maruta mao ma kũnyuuo.
vì khi Ta đem chúng vào vùng đất mà Ta đã hứa với chúng, thì chúng lại dâng lễ vật trên đồi cao và dưới mỗi bóng cây xanh mà chúng thấy. Chúng cố tình làm Ta giận bằng cách dâng tế lễ cho các thần của chúng. Chúng mang dầu thơm, hương liệu, và đổ rượu dâng lên các thần đó.
29 Hĩndĩ ĩyo ngĩmooria atĩrĩ: Gĩtũmi gĩa kũndũ kũu gũtũũgĩru mũthiiaga nĩ kĩĩ?’” (Nakuo gwĩtagwo Bama nginya ũmũthĩ.)
Ta hỏi chúng: ‘Nơi đồi cao mà các ngươi đến dâng sinh tế là gì?’ (Đây là miếu thờ tà thần được gọi là Ba-ma—tức ‘nơi cao’—kể từ đó.)
30 “Nĩ ũndũ ũcio ĩra andũ a nyũmba ya Isiraeli atĩrĩ: ‘Ũũ nĩguo Mwathani Jehova ekuuga: Anga nĩmũgwĩthaahia o ta ũrĩa maithe manyu meekire, na makĩĩrirĩria mĩhiano yao mĩũru?
Vì thế, hãy nói với dân tộc Ít-ra-ên về sứ điệp của Chúa Hằng Hữu Chí Cao rằng: Các ngươi tự làm nhơ bẩn mình theo cách tổ phụ đã làm sao? Các ngươi tiếp tục thờ lạy thần linh cách gớm ghiếc sao?
31 Rĩrĩa mũkũruta iheo cianyu, mũkaruta igongona rĩa kũhĩtũkithĩria ariũ anyu mwaki-inĩ-rĩ, mũthiiaga na mbere na gwĩthaahia na mĩhianano yanyu yothe o nginya ũmũthĩ. Niĩ no ndĩmwĩtĩkĩrie mũtuĩrie ũhoro harĩ niĩ, inyuĩ andũ a nyũmba ya Isiraeli? Mwathani Jehova ekuuga atĩrĩ: Ti-itherũ o ta ũrĩa niĩ ndũũraga muoyo, ndingĩmwĩtĩkĩria mũtuĩrie ũhoro harĩ niĩ.
Các ngươi hãy còn dâng lễ vật và thiêu con mình trong lửa tức là các ngươi làm cho mình ra ô uế bởi các thần tượng. Vậy lẽ nào Ta lại đáp lời các ngươi cầu vấn sao, hỡi nhà Ít-ra-ên? Thật như Ta hằng sống, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán, Ta sẽ chẳng đáp lời gì cho các ngươi.
32 “‘Inyuĩ mugaga atĩrĩ, “Ithuĩ tũkwenda gũtuĩka ta andũ a ndũrĩrĩ, ta kĩrĩndĩ kĩa mabũrũri ma gũkũ thĩ, arĩa matungatagĩra mĩtĩ na mahiga.” No maũndũ marĩa mwĩciirĩtie gũtirĩ hĩndĩ makaahinga.
Các ngươi nói: ‘Chúng tôi muốn như các nước chung quanh, là các dân tộc thờ những thần bằng gỗ và đá.’ Nhưng những gì các ngươi nghĩ sẽ không bao giờ xảy ra.
33 Mwathani Jehova ekuuga atĩrĩ: Ti-itherũ o ta ũrĩa niĩ ndũũraga muoyo, ngaamwathaga na guoko kũrĩ hinya, na guoko gũtambũrũkĩtio, na mangʼũrĩ maitanĩrĩirio.
Thật như Ta hằng sống, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán, Ta sẽ cai trị với bàn tay mạnh mẽ trong cơn thịnh nộ dữ dội và với năng quyền khủng khiếp.
34 Nĩngamũruta ndũrĩrĩ-inĩ na guoko kũrĩ hinya, na guoko gũtambũrũkĩtio, o na mangʼũrĩ maitanĩrĩirio, ndĩmũcookererie kuuma mabũrũri-inĩ marĩa mwahurunjirwo.
Trong cơn cuồng giận Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân, hợp các ngươi lại từ các nước các ngươi bị phân tán, với bàn tay mạnh mẽ và cánh tay đầy quyền năng.
35 Nĩngamũrehe werũ-inĩ wa ndũrĩrĩ, na kũu nĩkuo ngaamũtuĩra ciira tũkĩonanaga ũthiũ kwa ũthiũ.
Ta sẽ đưa các ngươi vào hoang mạc của các nước, và tại đó Ta sẽ đối mặt xét xử các ngươi.
36 O ta ũrĩa ndaatuĩrĩire maithe manyu ciira kũu werũ-inĩ wa bũrũri wa Misiri-rĩ, ũguo noguo ngaamũtuĩra ciira, ũguo nĩguo Mwathani Jehova ekuuga.
Ta sẽ xét xử các ngươi tại đó như Ta đã xét xử tổ phụ các ngươi trong hoang mạc sau khi đem chúng ra khỏi Ai Cập, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán.
37 Nĩngamũrũmbũiya ngĩmũhĩtũkĩria rungu rwa rũthanju rwakwa, na nĩngamũrehe ndĩmuohanie na kĩrĩkanĩro gĩakwa.
Ta sẽ tra thẩm các ngươi kỹ càng và đem các ngươi vào giao ước.
38 Nĩngamũtheria, ndĩmwehererie andũ arĩa aremi na arĩa manjũkagĩrĩra. O na gũtuĩka nĩngamaruta bũrũri ũrĩa matũũraga-rĩ, matigatoonya bũrũri wa Isiraeli. Hĩndĩ ĩyo nĩmũkamenya atĩ niĩ nĩ niĩ Jehova.
Ta sẽ thanh lọc những kẻ phản bội và nổi loạn chống nghịch Ta. Ta sẽ đem chúng ra khỏi những nước bị lưu đày, nhưng chúng sẽ không bao giờ được vào xứ Ít-ra-ên. Lúc ấy, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa Hằng Hữu.
39 “‘No inyuĩ andũ a nyũmba ya Isiraeli-rĩ, ũũ nĩguo Mwathani Jehova ekuuga: Thiĩi mũndũ o mũndũ mũgatungatĩre mĩhianano yanyu! Ti-itherũ thuutha ũcio, nĩmũgathikĩrĩria na mũtigacooka gũthaahia rĩĩtwa rĩakwa itheru na iheo cianyu na mĩhianano yanyu.
Hỡi nhà Ít-ra-ên, đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cáo phán: Hãy cứ đi và thờ phượng các thần của các ngươi, nhưng sớm hay muộn các ngươi cũng sẽ vâng phục Ta và sẽ thôi sỉ nhục Danh Thánh Ta bằng các lễ vật và thần tượng.
40 Ũũ nĩguo Mwathani Jehova ekuuga: Nĩgũkorwo kĩrĩma-inĩ gĩakwa gĩtheru, kĩrĩma kĩrĩa kĩraihu gĩa Isiraeli, kũu bũrũri ũcio nĩkuo andũ a nyũmba yothe ya Isiraeli makaandungatagĩra, na kũu nĩkuo ngaametĩkĩrĩra. Kũu nĩkuo ngaabatario nĩ maruta manyu na iheo cianyu iria njega, o hamwe na magongona manyu mothe marĩa maamũre.
Vì trên núi thánh Ta, núi cao của Ít-ra-ên, ngày nào đó toàn dân tộc Ít-ra-ên sẽ thờ phượng Ta, và Ta sẽ nhìn nhận chúng. Tại đó Ta sẽ đòi các ngươi dâng lễ vật, những phẩm vật chọn lọc, và lễ vật thánh.
41 Nĩngamwĩtĩkĩra ta mũrĩ ũbumba ũrĩ na mũtararĩko mwega, rĩrĩa ngamũruta ndũrĩrĩ-inĩ, ndĩmũcookererie kuuma mabũrũri-inĩ marĩa mwahurunjirwo, na nĩngeyonania atĩ ndĩ mũtheru gatagatĩ kanyu maitho-inĩ ma ndũrĩrĩ.
Khi Ta đem các ngươi về từ nơi lưu đày, các ngươi sẽ là lễ vật có hương thơm cho Ta. Và Ta được tôn thánh giữa các ngươi trước mắt các dân tộc.
42 Hĩndĩ ĩyo nĩmũkamenya atĩ niĩ nĩ niĩ Jehova, rĩrĩa ngaamũcookia bũrũri wa Isiraeli, bũrũri ũrĩa ndehĩtire njoete guoko na igũrũ atĩ nĩngaũhe maithe manyu.
Khi Ta đem các ngươi về xứ mà Ta đã thề hứa ban cho tổ phụ các ngươi, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa Hằng Hữu.
43 Mũrĩ kũu nĩmũkaririkana mĩtugo yanyu na ciĩko ciothe iria mwĩthaahĩtie nacio, na inyuĩ nĩmũkeemena nĩ ũndũ wa ũũru ũrĩa wothe mwaneeka.
Các ngươi sẽ nhớ lại những tội mình và ghê tởm chính mình vì những việc ác đã làm.
44 Nĩmũkamenya atĩ niĩ nĩ niĩ Jehova, rĩrĩa ngaamwĩka maũndũ macio nĩ ũndũ wa rĩĩtwa rĩakwa, no ti kũringana na mĩthiĩre yanyu mĩũru, na mĩtugo yanyu mĩũru, na maũndũ manyu mooru marĩa mwĩkaga, inyuĩ andũ a nyũmba ya Isiraeli, ũguo nĩguo Mwathani Jehova ekuuga.’”
Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa Hằng Hữu, hỡi nhà Ít-ra-ên, khi Ta đối xử nhân từ với các ngươi vì Danh Ta, chứ không vì tội ác của các ngươi. Ta, Chúa Hằng Hữu Chí Cao, đã phán vậy!”
45 Ningĩ kiugo kĩa Jehova gĩkĩnginyĩrĩra, ngĩĩrwo atĩrĩ,
Rồi Chúa Hằng Hữu truyền sứ điệp này cho tôi:
46 “Mũrũ wa mũndũ, roria ũthiũ waku mwena wa gũthini; hunjia ũhoro wa gũũkĩrĩra mwena wa gũthini, na ũrathe ũhoro wa gũũkĩrĩra mũtitũ wa bũrũri ũcio wa mwena wa gũthini.
“Hỡi con người, hãy quay mặt về phương nam và nói tiên tri nghịch cùng những khu rừng của Nê-ghép.
47 Ĩra mũtitũ ũcio wa mwena wa gũthini atĩrĩ: ‘Igua kiugo kĩa Jehova. Ũũ nĩguo Mwathani Jehova ekuuga: Ndĩ hakuhĩ gwakia mwaki thĩinĩ waku, naguo nĩũkaniina mĩtĩ yaku yothe, ĩrĩa mĩigũ nginya ĩrĩa mĩũmũ. Rũrĩrĩmbĩ rũu rũtikahoreka, na ũthiũ o wothe kuuma mwena wa gũthini nginya mwena wa gathigathini nĩũgaacinwo nĩruo.
Hãy nói với hoang mạc phương nam rằng: ‘Đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: Hãy nghe lời của Chúa Hằng Hữu! Ta sẽ nổi lửa đốt ngươi, cây tươi cũng như cây khô đều cháy hết. Ngọn lửa khủng khiếp sẽ không tắt và thiêu cháy mọi thứ từ nam chí bắc.
48 Mũndũ o wothe nĩakoona atĩ niĩ Jehova nĩ niĩ ndĩwakĩtie; ndũkahoreka.’”
Mọi người trên thế gian sẽ thấy rằng Ta, là Chúa Hằng Hữu, đã đốt lửa này. Ngọn lửa sẽ không hề tắt.’”
49 Hĩndĩ ĩyo ngiuga atĩrĩ, “Hĩ! Mwathani Jehova. Maraaria ũhoro wakwa, makoiga atĩrĩ, ‘Githĩ to kwaria araaria na ngerekano?’”
Tôi thưa: “Lạy Chúa Hằng Hữu Chí Cao, chúng nói về con rằng: ‘Ông ấy chỉ nói toàn chuyện ẩn dụ!’”

< Ezekieli 20 >