< Yanisa Mishiracho 16 >

1 Qasseka yesussay hizzgdes “hekoo hayssa wursa ta intes inte ammanoy yarkketoope gada yootadiis.
“Ta đã dạy các con những điều ấy để khi gặp khó khăn, các con sẽ không vấp ngã.
2 Isttii intena ba keethape goodana, haray attoshshin intena wodhizadeey wuri xoossas ooththzade milatza wodey yana.
Người ta sẽ khai trừ các con. Sẽ có lúc mọi người nghĩ rằng giết các con là phục vụ Đức Chúa Trời.
3 Istt hessaththo ooththizaay tanaka ta aawaka errontta gishshasa.
Họ giết các con vì họ không biết Đức Chúa Trời và cũng không biết Ta.
4 Ta hayssa intes hessa gakiza wode inte ta intes gidaysa qoopanasiko.” kaalleththidika yesussa hizzgdes “hayssa wursa ta intes yootontta aggiday ta intenara isife diza gishshasa.
Ta cho các con biết để khi các việc ấy xảy ra, các con nhớ rõ Ta báo trước rồi. Trước kia Ta chưa nói vì Ta còn ở với các con.”
5 Hai qasse tana kittdaysako bana gays gido attin intefe oonnika (awaa ne bane? gidi oychchanay bawa.
“Bây giờ Ta sắp trở về với Đấng đã sai Ta, nhưng chẳng ai trong các con lưu ý hỏi Ta đi đâu.
6 Gido attin hayssa wursa ta intes yootda gish inte wozinay muzetes.
Trái lại lòng các con phiền muộn vì những điều Ta nói.
7 Ta qasse tummu intes gays ta busii intes goo7e gidana, gasooyka ta bontta aggiko minththethiza ayanay intekoo yeena, ta bidappe guye iza intekoo yedana.
Dù vậy, Ta đi là ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi, Đấng An Ủi sẽ không đến với các con. Khi Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các con.
8 Izi yidi asa nagara gishine xiilotetha gish qasseka pirda gish errisana.
Khi Ngài đến, Ngài sẽ chứng tỏ cho nhân loại biết họ lầm lạc trong tội lỗi, sẽ dìu dắt họ trở về đường công chính, và giúp họ hiểu công lý của Đức Chúa Trời.
9 Asa nagara gish izi errisanay asay tana ammanoontta gishshasa
Họ tội lỗi vì không chịu tin Ta.
10 Xiiloteththa gish izi asa errisanay tani ta aawako buusa gishshine qasse namm7enththo inte tana beeyontta gishshasa.
Về sự công chính Ta đã dành cho họ khi Ta về cùng Cha, và các con sẽ không thấy Ta nữa.
11 Pirda gish izi errisanay hayssa dereza aysiza bolla pirdetda gishshasa.
Công lý sẽ đến vì những người cai trị thế gian này đã bị phán xét.
12 Ta intes buuro yootana daroo yoy des gido attin hai intena dexxan.
Ta còn nhiều điều muốn nói với các con, nhưng hiện giờ các con chưa hiểu.
13 Tumu ayanay yidi intena tumay dizaso kaalleththana, gasooyka izi siiydaysa yotana attin bepee gidontta gish izi sinththafe hanana yoota intes yootana.
Khi Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dạy cho các con biết chân lý toàn diện. Ngài không nói theo ý mình, nhưng truyền lại những điều Ngài đã nghe và nói cho các con biết những việc tương lai.
14 Tas dizaysape ekkidi izi intes yootza gish tana bonchana.
Thần Chân Lý sẽ tôn vinh Ta, vì Ngài sẽ cho các con biết sự thật về vinh quang Ta.
15 Aawas gididay wurikka taysa (tas gididaysape ekkidi izi intes yootana) ta gidday hessasa.”
Mọi điều Cha có đều thuộc về Ta, nên Ta nói: Thần Chân Lý sẽ cho các con biết sự thật về vinh quang Ta.”
16 Yesussay gujjidi hizzgdes “guththa wodepe guye inte tana beeyekista, qasseka guththa wodepe guye inte tana beeyana.”
“Chẳng bao lâu, các con không thấy Ta nữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn các con lại gặp Ta.”
17 Iza kaallizaytape baggati ba garssan “haysii nus guththa wodeepe guye inte tana beeyekista qasseka guththa wodeepe guye inte tana beeyana, qasse ta aawako bana) gusii ayy guse? gida.
Vài môn đệ hỏi nhau: “Lời Thầy có nghĩa gì khi nói: ‘Chẳng bao lâu nữa các con không thấy Ta, nhưng chỉ một thời gian ngắn các con lại gặp Ta,’ và ‘Ta sắp về với Cha’?
18 “Histtin haysi (guththa wodepe guye) gizaysi izi aze? izi yootzays nus erretena” gidi ba garssan zar zar oychchetida.
Và ý Thầy nói ‘một thời gian ngắn’ là bao lâu? Chúng ta không hiểu được.”
19 Istti iza oychchanaysa Yesussay erridi isttas hizzgdess “inte inte garssan isay isara oychchetzay ta intes “guththa wodepe guye inte nana byyekista qadeeka gutha woodepe guye inte tana beyanaa) gida gshshasee?
Chúa Giê-xu biết họ đang hoang mang, Ngài phán: “Các con không hiểu lời Ta vừa nói sao?
20 Ta intes tuma gays inte yekanashshb derey gidiko ufaana inte mmchistanashn inte mmchchy ufayydan ufaaysan lamistana.
Ta cho các con biết, các con sẽ than khóc về những việc sắp xảy đến cho Ta nhưng người đời sẽ mừng rỡ. Các con sẽ đau buồn, nhưng nỗi buồn ấy sẽ biến thành niềm vui, vì các con lại gặp Ta.
21 Maccashii yeloo woodey gakiishn mixxasii hrigayysu shn naa yella yegidapee guyee bista boola nay yelletda gish uhaaththaasafe dendayssan kase ba wayedaysa zara qoopuku.
Người mẹ sắp đến giờ sinh nở phải chịu đau đớn, buồn lo. Nhưng sau khi sinh con, người mẹ vui mừng và quên hết đau đớn.
22 Hesatho inteeka hii mchchetista (yekista) qase ta intena beyana inte wozinaykka uhaaththaaeistana inte uhaaththaaysa zarii ekanadeey deena.
Tuy hiện nay các con đau buồn, nhưng chẳng bao lâu Ta sẽ gặp các con, lòng các con sẽ tràn ngập niềm vui bất tận.
23 “Inte he woode tape aykooka wosedeista ta intes tumu gayys ta sunththa ta awa wosiiko intes wursikka iimana.
Lúc ấy các con sẽ không còn thắc mắc hỏi han gì nữa. Ta quả quyết với các con, các con nhân danh Ta cầu xin điều gì, Cha cũng ban cho.
24 Hano gakanas inte ta sunththa aykooka wosi eerekista wosiite inte eekana inte uhaaththaaysaykka kumeeththa gidana.
Trước nay, các con chưa nhân danh Ta cầu xin điều chi cả. Cứ cầu xin đi, các con sẽ được, để lòng các con tràn ngập vui mừng.
25 “Hii gakanas ta intes lemussora yootadis shn hyssafe huye ta lemusoora yotonta wodde yana gidoo atiin awa gish intes wurssa qoonccsa yootana.
Ta thường dùng ẩn dụ để dạy dỗ các con. Sẽ đến lúc Ta không dùng ẩn dụ nữa, nhưng giải bày trực tiếp về Cha cho các con.
26 He wode inte ta nththan wosana taka (awa inte gish wosana) gikke.
Lúc ấy các con sẽ nhân danh Ta cầu xin, không phải chỉ có Ta cầu thay cho các con, nhưng chính các con cầu xin Cha,
27 Gasooyka away ba bagara intena dosiiza gishshasa away intena dosiizay inte tana dosiiza gishshasane ta Xoossa achchafe ydaysa intee amaniida gishshasa.
vì Cha cũng yêu các con bởi các con yêu Ta và tin rằng Ta được Đức Chúa Trời sai đến.
28 Tani awa achchfe kezzada hausa ha 7llamee yadissne qaseeka h 7llameza agada awako ta sima bana.”
Ta từ Cha xuống trần gian, nay Ta sắp rời trần gian trở về với Cha.”
29 Iza kaliizay hzgida “heko ne hii lemuson gidoonta nus qonccer yotadasaa.
Các môn đệ thưa: “Thưa Thầy, bây giờ Thầy giảng giải rõ ràng, không còn dùng ẩn dụ nữa.
30 Ne ubbaa eeriza malane oniika nena oycchcchanas koshontayssa hii nu eridassa hessa gishsha ne Xoossa achchafe kezidayysa nu amanoos.”
Bây giờ chúng con biết Thầy thấu hiểu mọi việc, chẳng cần ai hỏi Thầy. Vì thế chúng con tin Thầy đến từ Đức Chúa Trời.”
31 Yesussayistas hzgides “intee hii amaniidista”
Chúa Giê-xu hỏi: “Bây giờ các con tin rồi sao?
32 Gdoo atiin inte intee bagara laleetda tana xala agana wodeyy gakiides he satiyka hii gakkadus gidoo atiin away tanara gidida gish ta tarka gidiike.
Sắp đến lúc các con ly tán mỗi người một ngã, bỏ Ta lại một mình. Nhưng Ta không cô đơn bao giờ vì Cha ở với Ta.
33 Ta hyysa intes yotizzay inte tanan deyyn intees sarotithii dana malla gada yotaays inte h 7llameen dishshn intes wayeyy dees gidoo atiin aykooy ba ta 7llamee xoondees.”
Ta nói cho các con những điều ấy để các con được bình an trong Ta. Thế gian sẽ gây đủ thứ hoạn nạn khốn khổ cho các con. Nhưng đừng nản lòng vì Ta đã chiến thắng thế gian.”

< Yanisa Mishiracho 16 >