< 1 Phixxirosa 3 >
1 Hessaththoka macheto! inte inte azinatas azazetite. Hessatho issi issi azinati Xoossa qaala ammanonttayta gidikkoka coo mela ba machcheta lo7etethan xalala simmontta agettena.
Cũng vậy, vợ nên thuận phục chồng mình, nếu người chồng nào không chịu nghe vợ nói về Chúa, cũng có thể nhìn thấy cách ăn nết ở của vợ mà được cảm hóa.
2 Istti simmana danda7izay inte geeshatethane inte ase bonchiza duusu dizayssa beydikko.
Nếp sống trong sạch, đạo đức của người vợ còn có ý nghĩa hơn cả lời nói suông.
3 Inte lo7etethi coo mela hu7e dathanine worqan gexxetethan, al7o mayo mayon, coo mela ayfen beettiza geexen gidopo.
Đừng quá chú trọng vẻ đẹp bề ngoài, như đeo vàng bạc, diện quần áo, hay bện tóc.
4 Inte lo7oy Xoossa sinthan wagara diza keehi bonchetidazine dhayontta gexxen, ashiketethan, addatethanine ayanan gexxettida wozina garisan qoteti diza giddo wozina lo7eteth gido.
Nhưng hãy trang sức con người bề trong bằng vẻ đẹp không phai của tâm hồn dịu dàng, bình lặng; đó là thứ trang sức rất quý giá đối với Đức Chúa Trời.
5 Beni wode ba ufayss Xoossan oothida geesha macashati gexxettiday hayssa malankko. Istti ba azinatas azazettida.
Vẻ đẹp ấy đã nổi bật nơi các nữ thánh ngày xưa, những người tin cậy Đức Chúa Trời và tùng phục chồng mình.
6 Istti azazetidaykka Saaray Abirame “Ta godo!” gaada azazettidayssa malakko. Inteka lo7o miishi oothikone issi iitta miishey intena daganthontta aggiko inte Saara naytakko.
Chẳng hạn, Sa-ra vâng phục và tôn trọng chồng như chủ. Nếu các bà theo gương Sa-ra làm điều hay lẽ phải, các bà mới là con gái thật của Sa-ra, và không có gì phải khiến các bà khiếp sợ.
7 Azinato! inte inte machchetara akekan issife deyte. Istti intefe daburancha medheteth gidida gishshine qasseka Xoossi coo mela kiyatethan immiza deyo istti intenara issife laatanayssa gishshi inte istta bonchite. Inte heyssatho oothiko inte woossa dhuphiza miishey deena.
Người làm chồng nên săn sóc vợ, hiểu biết những nhu cầu của vợ, tôn trọng không những vì họ thuộc phái yếu, mà còn vì cả hai vợ chồng cùng chia sẻ sự sống Chúa cho. Như vậy, sự cầu nguyện của anh em sẽ không bị cản trở.
8 Hessafe hara baggara qass inte issay issara siiqon diite. Hara ura bolla gakkiza meto inte meto mala xeellite. Inte inte garisan ishantta mala siiqettite. Ashikistane kiyata gidite.
Tóm lại, tất cả anh chị em hãy sống cho hoà hợp, thông cảm nhau, yêu thương nhau bằng tâm hồn dịu dàng và thái độ khiêm nhường.
9 Anjjite attin isttas iitta cashes, cashshe zaaropite. Inte xeeygetiday hessaththo oothid anjjo laatanaskko.
Đừng “ăn miếng trả miếng” hoặc nặng lời với người sỉ vả mình, trái lại, hãy cầu phước cho họ, vì Chúa bảo chúng ta làm lành cho người khác. Như thế, chúng ta sẽ được Đức Chúa Trời ban phước.
10 Geesha maxaafay giza mala “Deyon daana koyzayine lo7o gallasata beyanas koyiza uray ba duunape iitta hasa7ontta malane ba meterishatika gene hasa7ontta mala naageto.
Vì Kinh Thánh chép: “Nếu anh chị em muốn sống cuộc đời hạnh phúc và thấy những ngày tốt đẹp, hãy kiềm chế lưỡi khỏi điều ác và giữ môi miệng đừng nói lời dối trá.
11 Iitta yoope hakkone lo7o ootho; saroteth koyone kaallo.
Hãy xa lánh điều dữ và làm điều lành. Hãy tìm kiếm và theo đuổi hòa bình.
12 Goda ayfeti xiillota bagga xeelletes. Iza haythetika istta woossa siyanas doya deetes. Hinko iitta oothizayta qass Goday ba hanqo ayfeso bessana”
Vì Chúa đang theo dõi con cái Ngài, lắng nghe lời cầu nguyện họ. Nhưng Ngài ngoảnh mặt xoay lưng với người làm ác.”
13 Inte lo7o oothanas miinetiko inte bolla iitta miishe gaathanay oonee?
Thường thường, chẳng ai làm hại anh chị em khi anh chị em làm điều lành.
14 Inte lo7o oothida gishshi waaye beykoka inte anjjo ekkana. Asay inte bolla iitta oothanas mandetizayssas babbofitene daro qopofite.
Nhưng dù có đi nữa, anh chị em cũng đừng sợ họ, vì Chúa sẽ ban phước lành cho anh chị em.
15 Goda Kiristoosa inte wozinan bonchitene iza inte deyos Goda histtite. Intes diza ufayssa gishshi intena oychizaytas wurisos malthe immanas wurso wode giigeti uttite.
Hãy yên lặng, tôn cao Đấng Cứu Thế, Chúa của anh chị em. Nếu có ai hỏi: “Tại sao anh chị em tin Chúa?” hãy sẵn sàng trả lời họ cách hòa nhã, lễ độ, và rành mạch.
16 Inte isttas immana malthey qass ashiketethanine bonchon gido. Inte Kiristoosayta gidida gishshi intes diza lo7o amaleza gishshi iitta hasa7iza asay ba iitta hasa7an yeellatana mala intes lo7o qopay deyo.
Hành động nào cũng phải quang minh chính đại, giữ lương tâm trong sạch vì anh em thuộc về Chúa Cứu Thế, để những người đặt điều nói xấu anh chị em phải hổ thẹn khi họ biết mình đã tố cáo sai lầm.
17 Xoossa shene gidiko inte iitta ootho oothidi waayetanayssyafe lo7o ootho oothidi waayetiko lo7okko.
Vậy, nếu Chúa muốn anh chị em chịu khổ, thà khổ vì làm lành còn hơn làm ác.
18 Kiristoosayka nuna Xoossako shiishanas izi ba hu7es xiillokko shin hanko xiillo gidontta nu nagara gishshi nam7anthettontta mala issi to waayettidi hayqides. Izi ashon hayqides shin ayanan qass paxides.
Chúa Cứu Thế cũng đã chịu khổ. Mặc dù không hề phạm tội, Ngài đã một lần chết vì tội lỗi của tất cả chúng ta, để đem chúng ta trở về với Đức Chúa Trời. Dù thể xác Ngài chết, nhưng Ngài vẫn sống trong Thánh Linh.
19 Hessa he ayanan qasho keeththan diza shempotako biidi isttas miishiracho qaala yootides.
Với tâm linh ấy, Ngài đi thăm viếng và giảng dạy cho những linh hồn bị giam cầm từ thời Nô-ê.
20 Heyti heen woyne keeththan diza shempoti kase Nohe wode markabezi ootheti giigishin istti simmana mala Xoossi danda7an naagishin nuni nessi azazettokko gidaytakko. He markabezan gellin haathey istta ashidayta qooday osppun gidida guuthata asata xalalakko.
Dù Đức Chúa Trời nhẫn nại chờ đợi họ ăn năn khi Nô-ê đóng tàu, nhưng họ cứ ngoan cố nên trong cơn nước lụt, chỉ có tám người được cứu.
21 Hessi he haathezi ha7i qass inte izan attiza xinqatte lemusokko. Hayssi xinqattey qita bolla geeyanas meccetethi gidontta geesha qopa ekanas Xoossako shiishiza woossakko. Izi intena ashanayka Yesus Kiristoosa dentha baggarakko.
Nước lụt ấy tiêu biểu cho lễ báp-tem ngày nay, nhờ đó, anh chị em được cứu. Trong lễ báp-tem, chúng ta xác nhận mình được cứu nhờ kêu cầu Đức Chúa Trời tẩy sạch tội lỗi trong lương tâm chúng ta, bởi sự phục sinh của Chúa Cứu Thế Giê-xu, chứ không phải nhờ nước rửa sạch thân thể.
22 Izi pude salo biidi ha7i Xoossa achchan dees. kiitanchatine godatethi isttas dizayti wolqamataka izas haarettida.
Hiện nay, Chúa Cứu Thế đang ở trên thiên đàng, ngồi chỗ danh dự tối cao bên cạnh Chúa Cha và được các thiên sứ, các giới quyền uy trên trời cúi đầu vâng phục.