< Nehemiah 9 >

1 On October 31, the people gathered together again. They (fasted/abstained from eating food), they wore clothes made from rough cloth, and they put dirt on their heads [to show that they were sorry for their sins].
Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ bụi đất.
2 The Israeli people separated themselves from all the foreigners. They stood there and confessed their sins and the sins that their ancestors had committed.
Dòng Y-sơ-ra-ên chia rẽ các người ngoại, đứng dậy xưng tội lỗi mình và sự gian ác của tổ phụ mình.
3 The scroll that contained the laws of Yahweh, the God whom they [worshiped], was read to them for three hours. Then for three more hours they confessed their sins and they worshiped Yahweh.
Chúng đứng dậy tại chỗ mình, đọc trong sách luật pháp của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời mình, lâu đến phần tư ngày: trong một phần tư khác, chúng xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của họ.
4 [Some of] the descendants of Levi were standing on the stairs. They were Jeshua, Bani, Kadmiel, Shebaniah, Bunni, Sherebiah, [another] Bani, and Kenani.
Bấy giờ, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng dậy tại trên sạp người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời mình.
5 Then [the leaders of] the Levites called out to the people. They were Jeshua, Bani, Hashabneiah, Sherebiah, Hodiah, Shebaniah, and Pethahiah. They said, “While you are standing there, praise Yahweh your God, who has always lived and will live forever!” [Then one of them continued by praying this to God], “Yahweh, we praise your glorious name! You are much greater than anything that we can think about or talk about!
Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các ngươi, là Ðấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Ðáng ngợi khen danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi.
6 “You only are God. You made the sky and the heavens and all the stars. You made the earth and everything that is on it, and you made the seas/oceans and everything that is in them. You are the one who gives life to everything and helps them remain alive. All the angels who are in heaven worship you.
Ôi! chỉ một mình Chúa là Ðức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa.
7 “Yahweh, you are God. You chose Abram and brought him out of Ur [city] in Chaldea [region]. You gave him a new name, Abraham.
Chúa ôi! Chúa là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời mà đã chọn Áp-ram, đem người ra khỏi U-sơ của dân Canh-đê, và ban cho người tên Áp-ra-ham.
8 You saw that he was trustworthy. Then you made (an agreement with/a promise to) him, saying that you would give [to him and] to his descendants the land that the descendants of Canaan, Heth, Amor, Periz, Jebus, and Girgash lived in. And you have done what you promised, because you always do what is right.
Chúa thấy lòng người trung thành tại trước mặt Chúa, và Chúa lập giao ước với người, đặng ban cho dòng dõi người xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít; Chúa có làm ứng nghiệm lời của Chúa, vì Chúa là công bình.
9 “You saw what our ancestors were suffering in Egypt. You heard them cry to you for help when they were at the Red Sea.
Chúa có thấy sự khốn khổ của tổ phụ chúng tôi tại Ê-díp-tô, có nghe tiếng kêu la của chúng tại bên Biển đỏ,
10 Because you knew that the leaders of Egypt were treating our ancestors very arrogantly, you performed many kinds of miracles that caused the king and his officials and all his people to suffer. As a result, you became famous then, and you are still famous!
làm những dấu kỳ phép lạ nơi Pha-ra-ôn, nơi đầy tớ người và nơi toàn dân sự của nước người; vì Chúa biết rằng họ có đối đãi tổ phụ chúng tôi cách kiêu căng, và Chúa có làm nổi danh Chúa như thể ngày nay.
11 You caused the Red Sea to divide, with the result that your people walked through it on the ground without [getting their feet] wet. [After they were all safely on the other side, ] you [caused the water to come back again], and you hurled into the deep water the [soldiers of the Egyptian army] that were pursuing our ancestors. Their soldiers sank into the deep sea like stones!
Chúa có phân rẽ biển trước mặt chúng nó, để chúng nó đi ngang qua giữa biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo, Chúa bèn ném họ dưới vực sâu, như ném đá trong nước lớn.
12 During each day you led our ancestors with a bright cloud that resembled a huge pillar, and each night you led them by a flaming cloud that gave them light to show them where to walk.
Ban ngày, Chúa dẫn dắt chúng bằng một trụ mây, và ban đêm bằng một trụ lửa, để chiếu sáng cho chúng trong con đường phải đi theo.
13 “When our ancestors were at Sinai Mountain, you came down from heaven and spoke to them. You gave them many regulations and instructions that are just and reliable, and you gave them commands and laws that are good.
Chúa cũng giáng lâm tại trên núi Si-nai, phán với chúng từ trên trời, ban cho chúng những luật lệ ngay thẳng, pháp độ chơn thật, và những qui tắc cùng điều răn tốt lành.
14 You taught them about your holy (Sabbath/day of rest), and you gave many kinds of laws to your servant Moses for him to tell to the people.
Chúa khiến cho chúng biết ngày sa-bát thánh của Chúa, cậy Môi-se, tôi tớ của Chúa, truyền cho chúng những điều răn, qui tắc, và luật pháp.
15 When they were hungry, you gave them manna from the sky; and when they were thirsty, you gave them water from a rock. You commanded them to go and take, from the people who lived there, the land which you had promised to give to them.
Từ các từng trời, Chúa ban cho chúng bánh đặng ăn đói, khiến hòn đá chảy ra nước cho chúng uống khát, phán biểu chúng vào nhận lấy xứ mà Chúa đã thề ban cho chúng.
16 “But our ancestors were very proud and stubborn [IDM], and they did not do what you commanded them to do.
Nhưng tổ phụ chúng tôi cư xử cách kiêu hãnh cứng cổ mình, không nghe các điều răn của Chúa,
17 They refused to heed you, and they forgot about all the miracles that you had performed for them. Instead, they became stubborn [IDM], and they appointed someone to lead them back to Egypt, where they would be slaves again! But you are a God who forgives us and who is kind and merciful [to us]. You do not quickly become angry. You always faithfully love us.
chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Ðức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ chúng.
18 So, even though their [leaders] made an idol that resembled a calf and insulted you by saying [about the idol], ‘This is our god, who brought you up out of Egypt,’ you did not desert them.
Dẫu khi chúng làm một con bò con đực, mà rằng: Nấy là thần đã dẫn các ngươi lên khỏi Ê-díp-tô, và chọc cho Chúa giận nhiều,
19 “Because you always act mercifully, you did not abandon them when they were in the desert. The bright cloud which was like a huge pillar continued to lead them during the daytime, and the fiery cloud showed them where to walk at night.
thì Chúa vì sự thương xót của Chúa, không lìa bỏ chúng trong đồng vắng; trụ mây dẫn đường ban ngày, không lìa khỏi trên chúng, hoặc trụ lửa lúc ban đêm chiếu sáng và chỉ cho chúng con đường chúng phải đi.
20 You sent your good Spirit to instruct them. You continued to provide water when they were thirsty.
Chúa cũng ban cho chúng Thần linh lương thiện của Chúa, để dạy dỗ cho chúng, không từ chối cho miệng chúng ăn ma-na, và ban cho chúng nước đặng uống khát.
21 For 40 years you took care of them in the desert. During all that time, they had everything [that they needed]. Their clothes did not wear out, and their feet did not swell up [even though they were continually walking].
Phải, Chúa nuôi dưỡng chúng bốn mươi năm trong đồng vắng: chúng chẳng thiếu thốn chi cả; quần áo chúng không cũ rách, và chơn chúng chẳng phù lên.
22 “You helped our ancestors to defeat armies of great kings who ruled many people-groups. By doing that, you enabled our ancestors to (occupy/live in) even the most distant places in this land. They occupied the land over which King Sihon ruled from Heshbon [city] and the land over which King Og ruled in [the] Bashan [area].
Vả lại, Chúa ban cho chúng những nước và dân tộc, và phân phát nước ấy cho chúng; chúng nhận được nước của Si-hôn, tức nước của vua Hết-bôn, và nước của Oùc, vua Ba-san.
23 You caused our ancestors’ descendants to become as numerous as the stars in the sky, and you brought them into this land, the land that you told their fathers to enter and occupy.
Chúa cũng thêm nhiều con cháu chúng đông như sao trên trời, đưa chúng vào xứ mà Chúa đã phán cùng tổ phụ chúng rằng chúng sẽ vào đó đặng nhận lấy xứ ấy.
24 Their sons went in and took the land [from the people that lived there]. You enabled them to defeat the descendants of Canaan who lived here in this land. You enabled them to conquer the descendants of Canaan and their kings and the people whom they ruled. You enabled our ancestors to do to those people whatever they wanted to do.
ậy, con cháu chúng bèn vào nhận lấy xứ, và Chúa bắt phục trước mặt họ các dân của xứ, là dân Ca-na-an, phó dân ấy và những vua chúng nó cùng các dân tộc của xứ vào tay họ, đặng họ đãi các dân ấy theo ý mình muốn.
25 Our ancestors captured cities that had walls around them, and they took possession of fertile land. They took possession of houses that were full of good things, where there were wells that were already dug. They took possession of many vineyards and groves of olive trees and fruit trees. They ate all that they wanted to and became fat. They were delighted in all these good things that you gave to them.
Họ chiếm lấy những thành bền vững, và ruộng đất mầu mỡ, được những nhà đầy các vật tốt lành, nhưng giếng đào, vườn nho, vườn ô-li-ve, và cây trái rất nhiều; chúng ăn, bèn được no nê, và mập béo, vui lòng trong sự nhân từ lớn lao của Chúa.
26 “But they disobeyed you and rebelled against you. They (turned their backs on/rejected) your laws. They killed the prophets who warned them that they should return to you. They badly insulted you.
Dầu vậy, chúng chẳng vâng theo, bèn phản nghịch với Chúa, ném bỏ luật pháp Chúa sau lưng, giết các đấng tiên tri của Chúa, là người làm chứng nghịch cùng họ đặng đem họ trở lại cùng Chúa; song chúng lại chọc giận Chúa nhiều thay.
27 So you allowed their enemies to defeat them. But when their enemies caused them to suffer, they called out to you. You heard them from heaven, and because you are very merciful, you sent them people to help them, and those leaders rescued them from their enemies.
Vì vậy, Chúa phó họ vào tay cừu địch của họ; chúng nó hà hiếp họ. Trong thời hoạn nạn chúng kêu cầu cùng Chúa, thì từ các từng trời Chúa có nghe đến; theo lòng nhân từ lớn lao của Chúa, Chúa bèn ban cho những đấng giải cứu để cứu chúng khỏi tay kẻ cừu địch mình.
28 “But after there was a time of peace again, our ancestors again did things that displeased you. So again you allowed their enemies to conquer them. But whenever they cried out to you again [to help them], you heard them from heaven, and because you act mercifully, you rescued them many times.
Nhưng khi chúng được an tịnh, bèn khởi làm lại điều ác trước mặt Chúa; vì vậy, Chúa bỏ chúng vào tay kẻ thù nghịch để quản hạt chúng; song khi chúng trở lại, kêu cầu cùng Chúa, thì Chúa từ trên trời nghe đến, và vì lòng thương xót Chúa, nên giải cứu chúng nhiều lần.
29 “You warned them that they should again [obey] your laws, but they became proud and stubborn, and they disobeyed your commands. They sinned by disobeying what you commanded them to do, the things that would enable them to live a good long life [if they obeyed them]. They stubbornly refused [IDM] to listen to you and continued sinning.
Chúa cũng làm chứng nghịch cùng chúng, để dẫn dắt chúng trở lại luật pháp của Ngài. Dầu vậy, chúng cư xử cách kiêu ngạo không nghe các điều răn Chúa, phạm đến luật lệ của Chúa, là luật lệ nếu người nào vâng làm theo, tất sẽ được sống; chúng ở chấp nhất, cứng cổ mình, và không khứng nghe theo.
30 You were patient with them for many years. You warned them trough [the messages] your Spirit gave to the prophets. But they did not (heed/pay attention to) those messages. So again you allowed [the armies of] other nations to defeat them.
Chúa dung thứ chúng nhiều năm và cậy Thần linh và các tiên tri của Chúa mà làm chứng nghịch cùng chúng; nhưng chúng không lắng tai nghe, nên Chúa phó chúng vào tay dân tộc của các xứ.
31 But because you act very mercifully, you did not get rid of them completely or abandon them [forever]. You are a very gracious/kind and merciful God!
Song, vì lòng thương xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng; vì Chúa vốn là Ðức Chúa Trời hay thương xót và nhơn từ.
32 “Our God, you are great! You are mighty! You are awesome! You faithfully love us as [you promised in] your agreement with us that you would do! But now we are experiencing great difficulties/hardships. Great troubles have come to us, to our kings, to our [other] leaders, to our priests, and to our prophets. We have been experiencing these troubles since [the armies of] the kings of Assyria [conquered us], and we are still experiencing them. We ask that you sincerely think about [LIT] all these things.
Vậy bây giờ, hỡi Ðức Chúa Trời của chúng tôi ơi! là Ðức Chúa Trời rất lớn rất quyền năng và đáng sợ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn cực nhọc đã giáng trên chúng tôi, trên các vua và các quan trưởng, trên những thầy tế lễ và các tiên tri, trên tổ phụ chúng tôi, và trên hết thảy dân sự của Chúa, từ đời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.
33 [We know that] you acted justly each time that you punished us. We have sinned greatly, but you have treated us fairly.
Trong mọi việc đã xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn là công bình; vì Chúa thi hành cách chơn thật, còn chúng tôi lại làm cách hung ác.
34 Our kings and other leaders and our priests and our other ancestors did not obey your laws. They did not heed your commands or the warnings that you gave to them.
Các vua chúng tôi, các quan trưởng, những thầy tế lễ, và tổ phụ chúng tôi, không có gìn giữ luật pháp của Chúa, cũng chẳng nghe theo các điều răn và chứng cớ mà Chúa phán dạy nghịch cùng chúng.
35 Even when they had their own kings, and they enjoyed the good things that you did for them in this large and fertile land that you gave to them, they did not serve you. They refused to quit doing what was evil.
Tại trong xứ của chúng, giữa đều ơn lành dư dật mà Chúa đã ban cho chúng, tại trong đất rộng rãi và màu mỡ mà Chúa đã đặt trước mặt chúng, chúng không phục sự Chúa, chẳng trở bỏ các công việc ác của họ.
36 “So now we are [like] slaves here in this land that you gave to our ancestors, the land that you gave to them in order that they could enjoy all the good things that grow here.
Kìa, ngày nay chúng tôi làm tôi mọi; này chúng tôi làm tôi trong xứ để ăn bông trái và thổ sản tốt tươi của nó.
37 Because we have sinned, [we cannot eat the things that grow here]. The kings that now rule over us are enjoying the things that grow here. They rule us and [take] our cattle. We have to serve them and do the things that please them. We are experiencing great misery/distress.
Xứ sanh ra nhiều thổ sản cho các vua mà Chúa đã lập trên chúng tôi tại cớ tội lỗi của chúng tôi: các vua ấy cũng tự ý mình lấn lướt trên thân thể chúng tôi và các súc vật của chúng tôi, và chúng tôi đương bị hoạn nạn lớn.
38 “However, we [Israeli] people now are making an agreement/promise [to obey you], and we are writing this agreement/promise [on a scroll]. We will write on it the names of our leaders and the names of the Levites and the names of the priests, and then we will seal it.”
Dầu các sự này, chúng tôi lập giao ước chắc chắn, và chúng tôi ghi chép nó các quan trưởng, người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng tôi đóng ấn cho.

< Nehemiah 9 >