Aionian Verses
Yawuote kod nyige duto nobiro mondo ohoye, to notamore ahoya. Nowacho niya, “Ooyo, abiro ywago wuoda nyaka atho aluw bangʼe.” Kuom mano wuon-gi noywage. (Sheol )
Các con trai và con gái cố gắng an ủi cha, nhưng ông gạt đi: “Không! Cha cứ khóc nó cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt.” Gia-cốp thương tiếc Giô-sép vô cùng. (Sheol )
To Jakobo nodwoke niya, “Wuoda ok nyal dhi kuno kodu; owadgi osetho kendo en kende ema odongʼ, ka gimoro marach otimorene e wuodhno, to ubiro miyo atho gi kuyo.” (Sheol )
Gia-cốp đáp: “Con tao sẽ không đi với chúng mày đâu. Anh nó chết, tao chỉ còn một mình nó. Nếu nó bị nguy hiểm dọc đường, lão già này sẽ sầu khổ mà chết.” (Sheol )
Ka ukawo owadgi bende ma gimoro dhi ohinye, to di umi chunya chandruok ma atho ka an gi kuyo to aseti.’ (Sheol )
Nếu chúng bay đem đứa này đi nữa, rủi nó bị nguy hiểm, thân già này sẽ sầu khổ mà chết.’ (Sheol )
kendo dimi jotichni mi wuon-gi chuny lit ma otho ka en gi kuyo to oseti. (Sheol )
khi thấy tôi mà không thấy nó, chắc chắn cha tôi sẽ chết. Vậy, chính chúng tôi làm cho cha già chết trong sầu khổ. (Sheol )
To ka Jehova Nyasaye okelo gima nyien mopogore gi mago duto mapile, kendo ma piny oyawo dhoge mi omwonyogi, gi gik moko duto ma mekgi, kendo ma gidhi ei bur ka gingima, eka unungʼe ni jogi osewuotho e nyim Jehova Nyasaye gi achaya.” (Sheol )
Nhưng nếu Chúa Hằng Hữu làm một điều lạ, nếu đất nứt ra nuốt sống họ và mọi vật của họ, nếu họ còn sống mà đi xuống âm phủ, thì trường hợp này có nghĩa là họ đã khinh bỉ Chúa Hằng Hữu.” (Sheol )
Negidhi e bur kagingima mi lowo uomogi kod mwandugi kendo negilal nono ei oganda Israel. (Sheol )
Vậy họ xuống âm phủ trong lúc đang sống, đất phủ lấp họ, và như vậy họ bị diệt trừ khỏi cộng đồng dân tộc. (Sheol )
Mach osemoki gi mirimba, en mach mawangʼo nyaka kuonde joma otho e bwo lowo. Obiro ketho piny kod nyakne duto kendo ka omoko mach nyaka e konde mag gode. (Sheol )
Vì lửa giận Ta bốc cháy và thiêu đốt Âm Phủ đến tận đáy. Đốt đất và hoa mầu ruộng đất, thiêu rụi cả nền tảng núi non. (Sheol )
“Jehova Nyasaye ema kelo tho, kendo chiwo ngima; en ema onego kendo ochiero. (Sheol )
Chúa Hằng Hữu cầm quyền sống chết trong tay; cho người này xuống mồ, người kia sống lại. (Sheol )
Tonde mag tho nondhoga morida kendo obadho mar tho nochika tir. (Sheol )
Âm phủ thắt chặt dây oan nghiệt; lưới tử thần chằng chịt dưới chân. (Sheol )
Ti kode kaluwore gi riekoni, to kik iwe lwar mantie e wiye dhi e bur gi kwe. (Sheol )
Con phải hành động khôn khéo, đừng để cho lão già ấy an ổn xuống mồ. (Sheol )
To koro kik ikwane ka ngʼama onge ketho. In ngʼama riek; iningʼe gima nitimne. Kik iwe lwar mantie e wiye dhi e bur gi kwe. (Sheol )
Tuy nhiên, con đừng kể nó là vô tội. Là người khôn ngoan, con biết phải xử sự thế nào. Phải cho đầu bạc nó vấy máu khi xuống mồ.” (Sheol )
Mana kaka bor polo rumo mi lal nono, e kaka ngʼat miyiko e liel ok duogi. (Sheol )
Như mây tan và tiêu mất thể nào, thì người chết cũng sẽ không trở lại. (Sheol )
Giboyo moyombo polo, koro in to ditimie angʼo? Gitut moloyo bur liel; koro in to ditimie angʼo? (Sheol )
Sự hiểu biết ấy cao hơn các tầng trời— anh nghĩ anh là ai? Những điều ấy sâu hơn âm phủ— anh biết được gì? (Sheol )
“Mad ne ipanda ei liel mondo ne abed maonge nyaka chop mirimbi rum, bangʼe to iket kinde ma ibiro parae kendo! (Sheol )
Ước gì Chúa đem con giấu nơi âm phủ, và quên hẳn con cho đến khi cơn giận Ngài nguôi. Nhưng đến kỳ định, xin Ngài nhớ lại con! (Sheol )
Ka dipo ni dala ma ageno dhiye en mana liel kende, kata kapo ni apedho kitandana e mudho, (Sheol )
Nếu tôi chờ đợi, âm phủ sẽ là nhà tôi ở, tôi trải giường ra trong bóng tối thì sao? (Sheol )
Bende dodhi piny nyaka e dhorangeye mag tho? Koso bende dwalor kode nyaka ei lowo?” (Sheol )
Không, hy vọng tôi sẽ theo tôi vào âm phủ. Và cùng tôi trở về cát bụi!” (Sheol )
Piny dhi kodgi maber higa ka higa, kendo githo ka gin gi kwe. (Sheol )
Chúng sống những ngày giàu sang thịnh vượng, rồi yên lành đi vào âm phủ. (Sheol )
Joricho lal nono e piny ma ji odakie, mana kaka pe leny ka chiengʼ rieny e ndalo oro. (Sheol )
Như nắng hạn nuốt hết nước chứa trong kho tuyết, âm phủ cũng nuốt bọn người tội ác. (Sheol )
Piny joma otho ok opondo ne Nyasaye; kendo onge gima nyalo mone nene. (Sheol )
Trước mắt Đức Chúa Trời, âm phủ lộ nguyên hình. Tử thần không che khuất. (Sheol )
Onge ngʼama nyalo pari ka osetho. En ngʼa madi paki gi ei liel? (Sheol )
Người đã chết làm sao nhớ Chúa. Dưới âm ty, ai ca tụng Ngài? (Sheol )
Joma timbegi richo dok e bur matut, nyaka ogendini duto ma wigi wil gi Nyasaye. (Sheol )
Người tội ác sẽ bị lùa vào âm phủ. Cùng với các dân tộc từ khước Đức Chúa Trời. (Sheol )
nikech ok inijwangʼa ei liel, to bende ok niyie Ngʼati Maler tow. (Sheol )
Vì Chúa không bỏ linh hồn con trong âm phủ không để người thánh Ngài rữa nát. (Sheol )
Tonde mag liel ne orida kendo odhoga matek; obadho mag tho ne ochoma tir. (Sheol )
Âm phủ thắt chặt dây oan nghiệt; lưới tử thần chằng chịt dưới chân. (Sheol )
Yaye Jehova Nyasaye, ne igola oko e liel, ne iresa kane oyudo aridora piny e bur matut mar joma otho. (Sheol )
Chúa đã đem con lên khỏi âm phủ, lạy Chúa Hằng Hữu. Ngài cho con sống, khỏi nằm dưới huyệt sâu. (Sheol )
Kik iwe wiya kuodi, yaye Jehova Nyasaye, nikech aseywakni ka alemo; to we joma timbegi richo oyud wichkuot kendo ginindi ka gilingʼ thi ei liel. (Sheol )
Lạy Chúa Hằng Hữu, xin đừng để con bị hổ thẹn, vì con đã kêu cầu đến Ngài. Xin cho người ác ê chề nhục nhã; lặng lẽ nằm yên dưới âm ty. (Sheol )
Gichomo liete mokuny nigi mana kaka rombe kendo tho biro lokogi chiembe. Joma ngimagi oriere tir biro loyogi ka piny oru, to dendgi biro towo e liete, ka gin mabor gi utegi madongo machalo ute ruodhi. (Sheol )
Họ như đàn chiên bị định xuống âm phủ, sự chết sẽ chăn giữ họ. Buổi sáng, người công chính sẽ quản trị họ. Thân xác họ sẽ rữa nát trong nấm mồ, xa khỏi những cung đền lộng lẫy. (Sheol )
Anto Nyasaye biro reso chunya mi ogola e liel adier, obiro kawa mi odhi koda ire. (Sela) (Sheol )
Nhưng, Đức Chúa Trời sẽ chuộc linh hồn tôi khỏi âm phủ. Và đem tôi lên với Ngài. (Sheol )
Mad tho neg wasika apoya, mad liel mwonygi ngili kapod gingima, nikech richo olokogi kar dakne. (Sheol )
Xin sự chết thình lình đến trên họ; khiến họ phải vào âm phủ, vì cưu mang gian ác trong lòng. (Sheol )
Nimar (hera) ma iherago duongʼ, kendo isegola ei chuny bur matut. (Sheol )
vì lòng nhân ái Chúa dành cho quá lớn. Chúa đã cứu linh hồn con khỏi vực thẳm âm ty. (Sheol )
Nimar chandruok opongʼo chunya kendo ngimana sudo machiegni gi liel. (Sheol )
Vì linh hồn con tràn đầy khổ đau, và mạng sống con gần kề âm phủ. (Sheol )
En ngʼa manyalo bedo mangima nyaka chiengʼ mak oneno tho? Koso en ngʼa manyalo resore owuon e teko mar liel? (Sela) (Sheol )
Không ai có thể sống mãi; tất cả sẽ chết. Không ai có thể thoát được quyền uy của nấm mồ. (Sheol )
Tonde mag tho norida, lit mar liel nochopona, kendo chandruok gi chuny lit noloya. (Sheol )
Tôi mắc vào cạm bẫy tử thần; thống khổ âm phủ chụp đầu tôi. Gieo nỗi niềm đau thương, sầu muộn. (Sheol )
Ka aidho e polo, to in kuno; ka aloso kitandana e bur matut, to in kuno. (Sheol )
Nếu con lên trời, Chúa ngự tại đó; nếu con xuống âm phủ, Chúa cũng ở đó. (Sheol )
Giniwach niya, “Mana kaka ngʼato puro kendo toyo lowo, e kaka chokewa osekere e dho bur liel.” (Sheol )
Khi người ta cày đất, xương người ác sẽ bị phân tán nơi cửa mộ. (Sheol )
mondo wamuonygi ngili ka bur liel mana ka joma omwony mangima gi bur; (Sheol )
Ta sẽ nuốt sống nó như âm phủ; nuốt trọn như người xuống huyệt sâu. (Sheol )
Tiendene ochomo kar tho, to ondamo mage ochiko bur tir. (Sheol )
Chân nó đưa xuống âm ty; bước nó dẫn vào mộ địa. (Sheol )
Ode en yo malach matero ji e liel, otelo ni ji koterogi e kuonde mag tho. (Sheol )
Nhà nó là đường đi địa ngục. Phòng nó dẫn xuống chốn tử vong. (Sheol )
To ok gingʼeyo kata matin ni joma otho ni kuno; bende ni joma lime ni e liel matut. (Sheol )
Người ấy chẳng biết nhà nó là mồ chôn người chết. Và khách nó mời đều ở nơi vực thẳm âm ty. (Sheol )
Jehova Nyasaye ongʼeyo gik moko matimore, bed ni en Tho kata Kethruok, omiyo dhano ok dipandne paro manie chunye! (Sheol )
Âm Phủ và Hỏa Ngục, Chúa Hằng Hữu còn thấy suốt. Huống hồ chi lòng dạ loài người! (Sheol )
Yor ngima telo kadhi malo ni ngʼat makare, mondo ogengʼe kik odhi mwalo kar tho. (Sheol )
Đường sống của người khôn dẫn lên cao; lánh xa âm phủ ở dưới thấp. (Sheol )
Kikumo nyathi kod kede to obiro reso chunye aa e tho. (Sheol )
Người dùng roi sửa dạy con, là cứu linh hồn nó khỏi hư vong. (Sheol )
Tho kod kethruok ok rom ngangʼ, to kata mana wenge dhano bende ok rom. (Sheol )
Mắt đầy tham vọng, chẳng bao giờ chán; âm ty nuốt người không hề thỏa mãn. (Sheol )
Gin liel, ich ma ok onywol, lowo ma pi ok rom, kata mach ma ok wach ni, ‘Oromo!’ (Sheol )
Âm phủ, lòng dạ son sẻ, đất không bao giờ đủ nước, và ngọn lửa hừng. (Sheol )
Gimoro amora ma lweti oyudo mondo otim, time gi tekri duto, nimar ei bur, kama ibiro idhiyoe, onge tich kata loso chenro kata ngʼeyo kata rieko. (Sheol )
Bất cứ điều gì con làm, hãy làm hết sức mình. Vì khi con đến trong cõi chết, sẽ không có công việc, kế hoạch, tri thức, hay khôn ngoan. (Sheol )
Para e chunyi kinde duto, kendo wiyi kik wil koda; nikech hera nigi teko mana ka tho, kendo nyiego ma hera nigo tut mana ka bur tho. Herano liel ka mach mabebni, kendo mana ka ligek mach maduongʼ. (Sheol )
Xin đặt em như chiếc ấn trong lòng chàng, như chiếc ấn nơi cánh tay chàng. Vì ái tình mạnh như sự chết, lòng ghen tuông bốc cháy như âm phủ. Tình yêu chiếu tia như lửa, như ngọn lửa phừng phừng bốc cháy. (Sheol )
Kuom mano piny joma otho ongʼamo dhoge malach ka dande oyawore malich; kendo enomuony jotelo kod oganda mamoko e kinde ma gikokee gi mor. (Sheol )
Vì thế, âm phủ liếm môi thèm khát, mở miệng thật rộng. Người giàu sang và quần chúng cùng những người gây náo nhiệt sẽ bị rơi xuống đó. (Sheol )
“Kwa Jehova Nyasaye ma Nyasachi ranyisi moro amora moa mwalo e bur piny kata moa e polo malo.” (Sheol )
“Hãy cầu xin Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời ngươi một dấu lạ, hoặc cao tận thiên đàng hoặc sâu dưới vực thẳm.” (Sheol )
Piny joma otho otuk duto ka romoni kidonjo kuno, kendo ochiewo chunje joma ne osetho mondo omosi, ma gin jogo duto mane jotelo e piny; omiyo jogo duto mane ruodhi mag ogendini aa malo e kombegi mag loch. (Sheol )
Trong nơi của cõi chết xôn xao khi ngươi đến. Các âm hồn của các lãnh đạo trên thế giới và các vua hùng mạnh phải đứng dậy để gặp ngươi. (Sheol )
Tekoni duto osedok piny nyaka ei liel, kaachiel gi thumbe ma yande iwinjo; kudni e pieni minindoe kendo e ongedi ma iumorigo. (Sheol )
Sự hùng mạnh và quyền lực của ngươi đã bị chôn với ngươi. Âm thanh của đàn hạc trong nơi ngươi sẽ ngưng. Giòi sẽ làm đệm ngươi, và sâu bọ làm mền đắp.’ (Sheol )
To koro osedwoki piny e bur matut nyaka e piny joma otho. (Sheol )
Nhưng trái lại, ngươi sẽ bị đem xuống cõi chết, tận đáy vực sâu. (Sheol )
Usungoru niya, “Wasetimo singruok gi tho wasedonjo e winjruok gi liete omiyo, ka masira miwachono nolandre e piny to ok nomulwa, nimar waseketo miriambo ragengʼ-wa, kendo wuondruok ka kar pondo.” (Sheol )
Các ngươi khoác lác: “Chúng tôi đã kết ước với sự chết và thỏa hiệp với mồ mả. Để khi sự hủy diệt đến sẽ không đụng đến chúng tôi, vì chúng tôi dựng nơi ẩn trốn vững vàng bằng sự dối trá và lừa gạt.” (Sheol )
Singruok maru gi tho nobed maonge; kendo winjruok mane utimo gi liete ok nobedi. Ka masira nomwomre, to mano ema nochwadu piny. (Sheol )
Ta sẽ hủy bỏ kết ước của ngươi với sự chết, và lật đổ thỏa hiệp của ngươi với mồ mả. Khi đại nạn quét qua, các ngươi sẽ bị giẫm sâu trong đất. (Sheol )
Ne apenjora niya, “E ndalo mag ber mar ngimana, bende onego bed ni akalo e rangeye mag tho kendo hikena modongʼ duto gol kuoma?” (Sheol )
Tôi nói: “Vào thời điểm tốt đẹp nhất của đời tôi, lẽ nào tôi phải vào nơi âm phủ? Lẽ nào tôi bị tước đoạt những năm còn lại của đời mình?” (Sheol )
Joma ni e liel ok nyal paki, tho ok nyal wero wendi mar pak, chutho joma dhi e bur ok nyal geno adiera mari. (Sheol )
Vì âm phủ không thể ngợi tôn Chúa; chúng không thể cất tiếng tôn ngợi Ngài. Những người đi xuống mộ huyệt không còn hy vọng vào sự thành tín Ngài nữa. (Sheol )
Ne uterone ruoth Molek mo zeituni kod modhi moko mangʼwe ngʼar. Ne uoro jombetre mau e piny mabor; to gikone ne utundo mana e tho owuon! (Sheol )
Các ngươi dâng dầu ô-liu cho thần Mô-lóc cùng nhiều loại hương thơm. Các ngươi cất công đi tìm kiếm rất xa, vào đến tận âm phủ, để tìm các thần mới về thờ. (Sheol )
Ma e gima Jehova Nyasaye Manyalo Gik Moko Duto wacho: Chiengʼ ma yadhno dhi e piny joma otho, anami pi manie bwo lowo ime kendo ywage. Anagengʼ aore mondo kik mol kendo anakel mudho e got Lebanon mana nikech en mi ami yien manie bungu duto two mana nikech en. (Sheol )
“Đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: Ngày A-sy-ri xuống âm phủ, Ta sẽ khiến các suối sâu than khóc. Ta sẽ ngăn các dòng sông và làm khô cạn những dòng nước. Ta sẽ khiến Li-ban ảm đạm và cây cối nó héo tàn. (Sheol )
Namiyo pinje oyiengni kane giwinjo mor mar podho mare, chiengʼ mane atere e liel kaachiel gi joma otho. Eka yiende duto mag Eden, ma gin yiende mabeyo mogik mag Lebanon gin yiende duto mane pi oromo maber, chunygi noduogo e piny mamwalo. (Sheol )
Ta sẽ làm các dân tộc rúng động khi nghe tiếng nó ngã, vì Ta sẽ ném nó xuống âm phủ với những kẻ giống như nó. Mọi cây cối kiêu ngạo của Ê-đen, những cây xinh đẹp và tươi tốt nhất của Li-ban, những cây có rễ đâm sâu xuống nước, đều được an ủi nơi âm phủ khi thấy nó cũng vào đó. (Sheol )
Joma nodak e bwo tipone kod pinje mane jokore bende notho kaachiel kode, kendo ne giriwore gi joma ne otho e lweny. (Sheol )
Những dân tộc liên minh cũng vậy, đều bị tiêu diệt và bị chết. Chúng đều đi xuống âm phủ—tức là những dân tộc đã sống dưới bóng của nó. (Sheol )
Thuondi maroteke biro nyiso jo-Misri gi jogo mane konyogi ni, ‘Gisebiro piny ei bur kendo koro giriere piny gi joma ne ok ongʼeyo Nyasaye, ma gin joma ne onegi gi ligangla.’ (Sheol )
Từ địa ngục, những lãnh đạo hùng mạnh sẽ chế nhạo Ai Cập và những đồng minh của nó rằng: ‘Chúng đã sa bại; chúng nằm chung với những kẻ không chịu cắt bì, dân của chúng bị giết bằng gươm.’ (Sheol )
Donge koro giriere piny e dier jokedo mamoko ma ok oter nyangu mosepodho, ma osedhi e bur kaachiel gi gigegi mag lweny, kendo makoro osepiel wiyegi e liganglagi? Kum mar richogi koro omako nyaka chokegi, kata obedo ni mbi mag jolwenygi ne olandore e piny joma ngima duto. (Sheol )
Chúng không được chôn trong danh dự như các dũng sĩ đã gục ngã, là những kẻ mang binh khí xuống phần mộ—khiên của chúng che thân và gươm của chúng đặt dưới đầu. Sự hình phạt tội của chúng sẽ đổ lại trên xương cốt chúng vì chúng đã gây khiếp đảm cho mọi người khi chúng còn sống. (Sheol )
“Abiro resogi kuom teko mar piny joma otho kendo anakonygi kuom tho. In tho, ere masicheni duto, kata in piny joma otho, ere kethruokni? “Ok anakeche, (Sheol )
Ta sẽ cứu chuộc chúng khỏi quyền lực âm phủ sao? Ta sẽ cứu chúng thoát chết sao? Này sự chết, hình phạt của ngươi ở đâu? Này âm phủ, quyền lực tàn phá của người đâu rồi? Vì Ta không thấy sự ăn năn của chúng (Sheol )
Kata dabed ni gikunyo bur matut mi gichopo nyaka e piny joma otho, to kata mana kuno abiro chopoe mi agolgi oko. Kata dabed ni giidho mi gichopo e polo, to kata kuno abiro chopoe mi aduog-gi piny. (Sheol )
Dù chúng đào hố sâu trốn xuống tận âm phủ, Ta cũng sẽ kéo chúng lên. Dù chúng leo lên tận trời xanh, Ta cũng sẽ kéo chúng xuống. (Sheol )
Nowacho niya, “Ei masichena naluongo Jehova Nyasaye kendo nodwoka. Ei bur matut ne aywak mondo ikonya mane iwinjo ywakna. (Sheol )
Ông nói: “Trong cơn hoạn nạn, con kêu cầu Chúa Hằng Hữu, thì Ngài đáp lời. Từ lòng âm phủ, con kêu cứu, thì Chúa Hằng Hữu nghe tiếng con. (Sheol )
chutho, divai momadho ndhoge; en jasunga kendo osiko otimo gik maricho ma ok ool. Nikech owuor ka liel mamuonyo ji kendo kaka tho ok rom e kaka en bende ok orom, ochoko ogendini duto mondo obi ire, kendo omako ji duto wasumbini. (Sheol )
Rượu phản trắc hại người kiêu hãnh, nên nó không thế nào tồn tại được. Bụng nó mở rộng như âm phủ, như sự chết nuốt người không bao giờ no chán. Nó gom các quốc gia, chất thành từng đống, để nó mặc sức dày xéo, bóc lột. (Sheol )
Anto anyisou ni ngʼato angʼata ma mirima omako gi nyawadgi ibiro ngʼadne bura. Bende, ngʼato angʼata mowachone nyawadgi ni, ‘Raka,’ ma tiende ni ifuwo, nyaka yal e buch jo-Sanhedrin. To ngʼato angʼata mowacho ni, ‘Ifuwo nade,’ biro neno chandruok mar mach mar Gehena. (Geenna )
Nhưng Ta phán: Người nào giận anh chị em mình cũng phải bị xét xử; người nào nặng lời nhiếc mắng anh chị em cũng phải ra tòa; người nào nguyền rủa anh chị em sẽ bị lửa địa ngục hình phạt. (Geenna )
Ka wangʼi ma korachwich miyo itimo richo to lodhe oko kendo iwite. Ber moloyo ka iwito fuon-ni achiel mar ringri moloyo ka ringri duto owiti e gehena. (Geenna )
Nếu mắt bên phải gây cho các con phạm tội, cứ móc nó ném đi, vì thà chột mắt còn hơn cả thân thể bị ném vào hỏa ngục. (Geenna )
Kamano bende ka lweti ma korachwich miyo itimo richo, to ngʼade oko iwite. Ber moloyo ka iwito fuon-ni achiel moloyo ka ringri duto odhi e gehena. (Geenna )
Nếu tay phải gây cho các con phạm tội, cứ cắt bỏ đi, vì thà cụt tay còn hơn cả thân thể bị sa vào hỏa ngục.” (Geenna )
Kik uluor jogo manego ringruok to ok nyal nego chuny. To ngʼama onego uluor en Jal manyalo tieko chuny kaachiel gi ringruok e gehena. (Geenna )
Đừng sợ những người muốn giết hại các con vì họ chỉ có thể giết thể xác, mà không giết được linh hồn. Phải sợ Đức Chúa Trời, vì Ngài có quyền hủy diệt cả thể xác và linh hồn trong hỏa ngục. (Geenna )
To in Kapernaum, bende ibiro tingʼori malo nyaka polo koso? Ooyo, ibiro lwar piny nyaka piny joma otho. Ka dine bed ni honni mane otim e iyi ne otim ei Sodom to dikoro pod entie nyaka kawuono. (Hadēs )
Còn thành Ca-bê-na-um được đem lên tận trời sao? Không, nó sẽ bị ném xuống hỏa ngục! Vì nếu các phép lạ Ta làm tại đây được thực hiện tại thành Sô-đôm, hẳn thành ấy còn tồn tại đến ngày nay. (Hadēs )
Ngʼato angʼata mowacho wach moro marach kuom Wuod Dhano nowene, to ngʼato angʼata mowuoyo marach kuom Roho Maler ok nowene richone, e tiengʼni kata e tiengʼ mabiro. (aiōn )
Ai nói lời xúc phạm Con Người cũng được tha, nhưng ai xúc phạm đến Chúa Thánh Linh sẽ không bao giờ được tha, dù trong đời này hay đời sau. (aiōn )
Kodhi mane olwar e kind kudho to ochungʼ kar ngʼat mawinjo wach, to parruok kuom ngima mar pinyni gi wuond ma mwandu kelo thungʼo wachno kendo mone nyak. (aiōn )
Hạt giống rơi nhằm bụi gai là những người nghe đạo Đức Chúa Trời nhưng quá lo âu về đời này và ham mê phú quý đến nỗi làm cho Đạo bị nghẹt ngòi, không thể nào kết quả được. (aiōn )
to jasigu ma komogi en Jachien. Keyo en giko piny, to jokeyo gin malaike. (aiōn )
Kẻ thù gieo cỏ dại vào lúa chính là ma quỷ; mùa gặt là ngày tận thế; thợ gặt là các thiên sứ. (aiōn )
“Mana kaka ipudho buya kendo iwangʼo e mach, e kaka biro bedo chiengʼ giko piny. (aiōn )
Cũng như cỏ dại bị gom lại đốt đi, đến ngày tận thế, (aiōn )
Kamano e kaka nobedi chiengʼ giko piny. Malaike nobi kendo nopog joma timbegi richo gi joma kare, (aiōn )
Cũng vậy, trong ngày tận thế, thiên sứ sẽ đến chia rẽ người gian ác với người công chính, (aiōn )
Kendo anyisi ni in Petro, kendo e lwandani ema abiro gere kanisana, kendo dhorangeye mag Gehena (tiende ni teko mar tho) ok noloye ngangʼ. (Hadēs )
Giờ đây, Ta sẽ gọi con là Phi-e-rơ (nghĩa là ‘đá’), Ta sẽ xây dựng Hội Thánh Ta trên vầng đá này, quyền lực của hỏa ngục không thắng nổi Hội Thánh đó. (Hadēs )
Ka lweti kata tiendi miyo idonjo e richo to ngʼade oko kendo iwite mabor. Ber moloyo kidonjo e ngima ka ionge lweti kata kingʼol moloyo bedo gi lwetegi ariyo kata tiendeni ariyo to owiti e mach manyaka chiengʼ. (aiōnios )
Vậy nếu tay hay chân xui các con phạm tội, hãy cắt bỏ nó đi! Thà què cụt mà vào cõi sống còn hơn lành lặn mà bị quăng vào lửa đời đời. (aiōnios )
Kamano bende ka wangʼi miyo itimo richo to lodhe oko kendo iwite mabor. Ber moloyo kidonjo e ngima gi wangʼ achiel kar bedo gi wenge ariyo to owiti e mach mar Gehena. (Geenna )
Nếu mắt xui các con phạm tội, hãy móc nó vứt đi! Thà chột mắt mà vào cõi sống còn hơn đủ hai mắt mà xuống hỏa ngục. (Geenna )
Eka ngʼat moro nobiro ir Yesu mopenje niya, “Japuonj, en angʼo maber monego atim mondo eka ayud ngima mochwere?” (aiōnios )
Một thanh niên đến hỏi Chúa: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều thiện gì để được sống vĩnh cửu?” (aiōnios )
Kendo ngʼato ka ngʼato moseweyo ode, kata owetene kata nyiminene, kata wuoro kata min, kata nyithindo, kata puothe nikech an, noyud gigo nyadi mia, kendo nocham ngima mochwere. (aiōnios )
Người nào bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con và tài sản mình để theo Ta, sẽ nhận lại gấp trăm lần, và sẽ hưởng sự sống vĩnh cửu. (aiōnios )
Ka noneno yiend ngʼowu moro e bath yo, nobaro kochomo yien-no, to ne ok oyudo gimoro amora kuome, makmana ite. Eka nowachone niya, “Kik ichak inyag olemo kendo!” Gikanyono yien-no noner. (aiōn )
Ngài thấy một cây vả bên vệ đường, liền lại gần nhưng không thấy trái, chỉ toàn cành lá rườm rà. Chúa quở: “Cây này sẽ chẳng bao giờ ra trái nữa!” Cây vả lập tức héo khô. (aiōn )
“Malit ochomou, un jopuonj chik gi jo-Farisai mawuondoregi! Uwuotho alanda, kungʼado piny gi nembe mondo ulokie kata ngʼato achiel, to koselokore to umiyo obedo koth Gehena moloyou nyadiriyo. (Geenna )
Khốn cho các ông, các thầy dạy luật và người Pha-ri-si! Các ông đi khắp các đường thủy, đường bộ tuyển mộ một người theo phe mình, để rồi huấn luyện người ấy trở thành hiểm độc gấp đôi các ông. (Geenna )
“Thuondegi! Kothe thuond fu-gi! Ubiro tony nade mak ongʼadnu buch Gehena? (Geenna )
Hỡi loài rắn độc! Dòng dõi rắn lục! Làm sao các ngươi thoát khỏi đoán phạt của địa ngục? (Geenna )
Kane oyudo Yesu obet ewi Got Zeituni Jopuonjre nobiro ire mopenje lingʼ-lingʼ niya, “Wachnwa ane, gigi biro timore karangʼo, kendo angʼo mabiro bedo ranyisi mar bironi kod mar giko mar ndalo?” (aiōn )
Khi Chúa Giê-xu ngồi trên núi Ô-liu, các môn đệ đến hỏi riêng: “Xin Thầy cho chúng con biết khi nào việc ấy xảy ra, và có dấu hiệu gì báo trước ngày Chúa trở lại và thời kỳ tận thế?” (aiōn )
“Eka enowachne joma ni e bade koracham ni, ‘Auru buta, un joma okwongʼ-gi, mondo udonji ei mach manyaka chiengʼ mane olosi ne Jachien gi malaikege. (aiōnios )
Rồi Vua quay sang nhóm người bên trái và nói: ‘Những người gian ác đáng nguyền rủa kia! Đi ngay vào lò lửa đời đời không hề tắt dành cho quỷ vương và các quỷ sứ. (aiōnios )
“Eka gini aa kanyo mi gidonji e kum mochwere, to joma kare e ngima mochwere.” (aiōnios )
Rồi người ác bị đưa vào nơi hình phạt đời đời, còn người công chính được hưởng sự sống vĩnh cửu.” (aiōnios )
kendo kupuonjogi mondo gitim gik moko duto ma asechikou. To awachonu adier ni an kodu ndalo duto, nyaka giko mar ndalo.” (aiōn )
và dạy họ vâng giữ mọi mệnh lệnh Ta! Chắc chắn Ta ở với các con luôn luôn, từ nay cho đến ngày tận thế.” (aiōn )
To ngʼato angʼata ma yanyo Roho Maler ok nowene richone ngangʼ, nikech oseketho ketho mochwere.” (aiōn , aiōnios )
Nhưng ai xúc phạm đến Chúa Thánh Linh sẽ chẳng bao giờ được tha. Đó là một tội đời đời.” (aiōn , aiōnios )
To achien parruok kuom ngima mar pinyni gi wuond ma mwandu kelo kaachiel gi gombo mag pinyni ma gigombogo gik mathoth, thungʼo Wach mamone nyak. (aiōn )
nhưng quá lo âu về đời này, ham mê phú quý và những lạc thú khác, đến nỗi làm cho Đạo bị nghẹt ngòi, không thể nào kết quả được. (aiōn )
Ka lweti miyo idonjo e richo to ngʼade oko. Ber moloyo kidonjo e ngima ka ionge lweti moloyo kidhi gi lwetegi ariyo e gehena, [ (Geenna )
Nếu tay các con xui các con phạm tội, hãy cắt nó đi! Thà cụt một tay mà lên thiên đàng, còn hơn đủ hai tay mà bị ném vào lửa địa ngục không hề tắt. (Geenna )
To kapo ni tiendi ema teri e richo to ngʼade oko. Ber moloyo kidonjo e ngima kingʼol kar donjo e gehena gi tiende ariyo, [ (Geenna )
Nếu chân xui các con phạm tội, hãy chặt nó đi! Thà cụt một chân mà có sự sống đời đời còn hơn đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục. (Geenna )
To ka en wangʼi ema miyo itimo richo to lodhe oko. Ber moloyo kidonjo e pinyruoth Nyasaye gi wangʼ achiel kar bedo gi wenge ariyo to owiti e gehena, (Geenna )
Nếu mắt xui các con phạm tội, hãy móc nó đi! Thà chột mắt vào Nước của Đức Chúa Trời, còn hơn đủ hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục, (Geenna )
Kane Yesu ochako wuoth dhi, ngʼat moro noringo obiro ire mogoyo chonge piny e nyime. Ngʼatni noloso kode kapenje niya, “Japuonj maber, en angʼo monego atim mondo eka ayud ngima mochwere kaka girkeni mara?” (aiōnios )
Khi Chúa Giê-xu sửa soạn lên đường, một người chạy đến quỳ xuống hỏi: “Thưa Thầy Thánh Thiện, tôi phải làm gì để được sống vĩnh cửu?” (aiōnios )
ma nobare mak oyudo nyadi mia: mier, owete, nyimine, mine, nyithindo, kod puothe, kaachiel gi sand bende e ndaloni, to kod ngima mochwere e piny mabiro. (aiōn , aiōnios )
mà trong đời này, không nhận lại gấp trăm lần nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, tài sản, với sự bức hại. Trong đời sau người ấy còn được sống vĩnh cửu. (aiōn , aiōnios )
Eka Yesu nowacho ni yadhno niya, “Ngʼato kik chak cham olemo mowuok kuomi kendo.” Jopuonjrene nowinje kowacho kamano. (aiōn )
Chúa quở cây ấy: “Từ nay về sau, không ai ăn trái của cây này nữa!” Các môn đệ đều nghe lời đó. (aiōn )
To enobed gi loch kuom od Jakobo nyaka chiengʼ, pinyruodhe ok norum ngangʼ.” (aiōn )
Ngài sẽ cai trị Ít-ra-ên mãi mãi; nước Ngài tồn tại đời đời.” (aiōn )
ne Ibrahim kod nyikwaye nyaka chiengʼ, mana kaka nowachone kwerewa.” (aiōn )
Vì Ngài đã hứa với tổ phụ chúng ta, với Áp-ra-ham và cả dòng dõi người đến muôn đời.” (aiōn )
(kaka nowacho gi dho jonabige maler mag ndalo machon), (aiōn )
đúng theo lời hứa của Ngài qua môi miệng các tiên tri thánh ngày xưa. (aiōn )
To negisiko gikwaye mondo kik ochikgi gidhiyo e Bur Matut Maonge Gikone. (Abyssos )
Bọn quỷ năn nỉ Chúa đừng đuổi chúng xuống vực sâu. (Abyssos )
To in Kapernaum bende ibiro tingʼori malo nyaka polo koso? Ooyo, ibiro lwar piny nyaka piny joma otho. (Hadēs )
Còn thành Ca-bê-na-um được đem lên tận trời sao?—Không, nó sẽ bị ném xuống cõi chết.” (Hadēs )
Chiengʼ moro achiel, ngʼat moro molony e chik nochungʼ mondo otem Yesu, nopenjo niya, “Japuonj, en angʼo monego atim eka ayud ngima mochwere kaka girkeni mara?” (aiōnios )
Một thầy dạy luật muốn thử Chúa Giê-xu đứng lên hỏi: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống vĩnh cửu?” (aiōnios )
To abiro nyisou jalno monego uluor: Luoruru jalno ma, bangʼ nego ringruok, to en gi teko mar witou e ataro mar mach. Ee, awachonu, luoreuru. (Geenna )
Vậy các con phải sợ ai? Phải sợ Đức Chúa Trời, vì Ngài có quyền sinh sát và ném vào hỏa ngục. Phải, Ngài là Đấng phải sợ. (Geenna )
“Ruoth nopako jarit gige ma ok kareno nikech notiyo gi rieke. Nimar jopinyni ongʼeyo tiyo mariek gi jowadgi moloyo jogo mawuotho e ler. (aiōn )
Chủ phải khen quản gia bất lương đã hành động khôn khéo! Vì người thế gian vẫn xử sự khôn lanh hơn con cái sự sáng. (aiōn )
Awachonu ni tiuru gi mwandu mag piny mondo umakgo osiepe ne un uwegi, mondo ka chiengʼ ma mwandugo orumo, norwaku e kar dak mochwere. (aiōnios )
Ta khuyên các con phải biết dùng của cải trần gian kết bạn, để khi tiền của hết, các con được tiếp vào nhà đời đời. (aiōnios )
Kane en e Piny Joma otho kisande malit, nongʼiyo malo to noneno Ibrahim gi kuma bor kod Lazaro e bathe. (Hadēs )
linh hồn ông đến chỗ của những người chết chịu khổ hình. Tại đó, người giàu nhìn lên, thấy Áp-ra-ham ở nơi xa với La-xa-rơ. (Hadēs )
Jatelo moro nopenje niya, “Japuonj maber, en angʼo monego atim mondo ayud ngima mochwere kaka girkeni mara?” (aiōnios )
Một nhà lãnh đạo tôn giáo hỏi Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống vĩnh cửu?” (aiōnios )
ma ok norem mak oyudo nyadi mangʼeny marome e tiengʼni kendo e tiengʼ mabiro, noyud ngima mochwere.” (aiōn , aiōnios )
sẽ nhận lại gấp trăm lần trong đời này, và đời sau được sống vĩnh cửu.” (aiōn , aiōnios )
Yesu nodwoko niya, “Ji manie piny e kindeni nyombo kendo inyuomo. (aiōn )
Chúa Giê-xu đáp: “Hôn nhân là việc của loài người trên đất. (aiōn )
To jogo mowal ni owinjore mondo obed e piny mar tiengʼ mabiro bangʼ chier aa kuom joma otho ok nokendi kata nokendgi ngangʼ, (aiōn )
Còn người được sống lại trong Nước Trời không ai còn cưới gả nữa. (aiōn )
mondo ngʼato ka ngʼato moyie kuome obed gi ngima mochwere. (aiōnios )
để bất cứ người nào tin Ngài đều được sự sống vĩnh cửu. (aiōnios )
“Nikech Nyasaye nohero piny ahinya, omiyo nochiwo Wuode ma miderma, mondo ngʼato angʼata moyie kuome kik lal, to obed gi ngima mochwere. (aiōnios )
Vì Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại đến nỗi hy sinh Con Một của Ngài, để tất cả những người tin nhận Con đều không bị hư vong nhưng được sự sống vĩnh cửu. (aiōnios )
Ngʼato moyie kuom Wuowi nigi ngima mochwere, to ngʼat modagi Wuowi ok none ngimano, nimar mirimb Nyasaye osiko kuome.” (aiōnios )
Ai tin Con Đức Chúa Trời đều được sự sống vĩnh cửu, còn ai không vâng phục Ngài chẳng được sự sống ấy mà còn mang án phạt của Đức Chúa Trời.” (aiōnios )
to ngʼato angʼata momodho pi mamiye ok nochak owinj riyo. Chutho, pi ma anamiye nodok soko mar pi e iye, mosiko ka bubni nyaka chop e ngima mochwere.” (aiōn , aiōnios )
Nhưng uống nước Ta cho sẽ chẳng bao giờ khát nữa; nước Ta cho sẽ thành một mạch nước trong tâm hồn, tuôn tràn mãi mãi sức sống vĩnh cửu.” (aiōn , aiōnios )
Kata mana sani ngʼat ma keyo ichulo pokne, kendo ochoko olembe mochiek ne ngima mochwere, mondo omi jachwoyo, kaachiel gi jakeyo, obed mamor kanyakla. (aiōnios )
Thợ gặt được thưởng công để đưa nhiều linh hồn vào cõi sống vĩnh cửu, nên cả người gieo lẫn người gặt đều vui mừng. (aiōnios )
“Awachonu adier ni ngʼato angʼata mawinjo wachna, kendo moyie kuom Jal mane oora, nigi ngima mochwere, kendo ok bi ngʼadne buch tho; to osengʼado oa e tho modonjo e ngima. (aiōnios )
Ta quả quyết với các ông, ai nghe lời Ta mà tin Đức Chúa Trời, Đấng đã sai Ta thì được sự sống vĩnh cửu. Người ấy không bị kết tội, nhưng đã thoát chết mà vào cõi sống. (aiōnios )
Uketo chunyu kuom nono Muma nikech uparo ni unyalo yudo ngima mochwere kuomgi. Muma ema timo neno kuoma, (aiōnios )
Các ông tra cứu Thánh Kinh vì tưởng nhờ cố gắng học hỏi mà được sự sống vĩnh cửu. Chính Thánh Kinh cũng làm chứng về Ta! (aiōnios )
Weuru tiyo ni chiemo marumo, to tiuru ni chiemo masiko nyaka chop uyud ngima mochwere, ma Wuod Dhano biro miyou. Nyasaye Wuoro oseketo kido mare kuome manyiso ni oyie kode.” (aiōnios )
Đừng nhọc công tìm kiếm thức ăn dễ hư nát. Nhưng hãy cất công tìm kiếm sự sống vĩnh cửu mà Con Người ban cho anh chị em. Chính vì mục đích ấy mà Đức Chúa Trời là Cha đã ấn chứng cho.” (aiōnios )
Adier, Wuora dwaro ni mondo ji duto mogeno kuom Wuowi, kendo moyie kuome mondo obed gi ngima mochwere, kendo ochiergi chiengʼ giko piny.” (aiōnios )
Vì ý muốn của Cha Ta là những người thấy Con và tin Ngài đều được sự sống vĩnh cửu và được sống lại trong ngày cuối cùng.” (aiōnios )
Awachonu adier ni ngʼama oyie kuoma nigi ngima mochwere. (aiōnios )
Tôi quả quyết với anh chị em, ai tin Ta sẽ được sự sống vĩnh cửu. (aiōnios )
An e makati mar ngima ma nobiro e piny koa e polo. Ka ngʼato moro amora ochamo makatini, to obiro bet mangima nyaka chiengʼ. Makatini en ringra, ma abiro chiwo mondo piny oyud ngima.” (aiōn )
Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ được sự sống đời đời; Bánh cứu sống nhân loại chính là thân thể Ta.” (aiōn )
Ngʼato angʼata mochamo ringra kendo omadho remba nigi ngima mochwere, kendo abiro chiere chiengʼ giko piny. (aiōnios )
Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sự sống vĩnh cửu; Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng. (aiōnios )
An e makati mobiro e piny koa e polo. Kwereu nochamo manna kendo ne githo, to ngʼat mochamo makatini, to biro bedo mangima nyaka chiengʼ.” (aiōn )
Ta là Bánh thật từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ không chết như tổ phụ của anh chị em (dù họ đã ăn bánh ma-na) nhưng sẽ được sống đời đời.” (aiōn )
Simon Petro nodwoke niya, “Ruoth, en ngʼa madwadhi ire? In ema in gi weche makelo ngima mochwere. (aiōnios )
Si-môn Phi-e-rơ thưa: “Thưa Chúa, chúng con sẽ đi theo ai? Chúa đem lại cho chúng con Đạo sống vĩnh cửu. (aiōnios )
To ongʼere ni misumba ok luong ni wuod dala, to wuod wuon dala ema iluongo kamano nyaka chiengʼ. (aiōn )
Thân phận nô lệ rất bấp bênh, tạm bợ, khác hẳn địa vị vững vàng của con cái trong gia đình. (aiōn )
Awachonu adier ni ka ngʼato orito wachna, to ok notho nyaka chiengʼ.” (aiōn )
Ta nói quả quyết, ai vâng giữ lời Ta sẽ chẳng bao giờ chết!” (aiōn )
Kane jo-Yahudi owinjo wachno, negiwachone niya, “Koro wangʼeyo maonge kiawa ni in gi jachien! Ibrahim notho, kendo jonabi bende notho, to in to iwacho ni ka ngʼato orito wachni to ok notho. (aiōn )
Người Do Thái bực tức: “Rõ ràng Thầy bị quỷ ám. Ngay đến Áp-ra-ham và các nhà tiên tri cũng chết, thế mà Thầy dám nói: ‘Ai vâng lời Ta sẽ chẳng bao giờ chết!’ (aiōn )
Nyaka nene pok nowinji ngʼat moyawo wangʼ ngʼat mane onywol ka en muofu. (aiōn )
Xưa nay, chưa bao giờ có ai chữa lành người khiếm thị từ lúc sơ sinh. (aiōn )
Amiyogi ngima mochwere, kendo ok ginilal ngangʼ, bende onge ngʼama nyalo kawogi kagologi e lweta. (aiōn , aiōnios )
Ta cho chúng sự sống vĩnh cửu, chúng chẳng bị hư vong, và chẳng ai có thể cướp chúng khỏi tay Ta. (aiōn , aiōnios )
kendo ngʼama ngima moyie kuoma ok notho ngangʼ. Bende iyie gi wachni?” (aiōn )
Những ai đang sống mà tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin điều này không, Ma-thê?” (aiōn )
Ngʼama ohero ngimane, ngimane biro lalne, to ngʼama ochayo ngimane e pinyni biro rite nyaka chop oyud ngima mochwere. (aiōnios )
Ai quý chuộng mạng sống mình sẽ mất nó. Ai hy sinh tính mạng trong đời này, sẽ được sự sống vĩnh cửu. (aiōnios )
Ogandano nodwoke niya, “Wasewinjo e chik ni Kristo biro siko nyaka chiengʼ, ka en kamano, to ikelo wacho nade ni, ‘Wuod Dhano nyaka bi tingʼ malo’? ‘Wuod Dhano’ miwuoyo kuomeno to en ngʼa?” (aiōn )
Đám đông thắc mắc: “Chúng tôi hiểu từ Thánh Kinh cho biết Đấng Mết-si-a sống vĩnh viễn. Sao Thầy nói Con Người sẽ chết. Con Người này là ai?” (aiōn )
Angʼeyo ni chikne ema kelo ngima mochwere. Kuom mano, gimoro amora ma awacho en mana gima Wuora onyisa mondo awachi.” (aiōnios )
Ta biết mệnh lệnh Ngài đem lại sự sống vĩnh cửu; vậy Ta chỉ nói những lời Cha đã truyền dạy cho Ta.” (aiōnios )
Petro nonyise koramo niya, “Ooyo, Ruoth, ok inyal luoko tiendena ngangʼ.” Yesu nodwoke niya, “Ka ok aluoko tiendi, to ok iwinjori bedo koda e kanyakla mar jopuonjrena.” (aiōn )
Phi-e-rơ thưa: “Con chẳng dám để Chúa rửa chân cho con bao giờ!” Chúa Giê-xu đáp: “Nếu Ta không rửa chân cho con, con không thuộc về Ta.” (aiōn )
Anakwa Wuoro, kendo obiro miyou Jakony machielo mondo obed kodu nyaka chiengʼ. (aiōn )
Ta sẽ cầu xin Cha ban cho các con Đấng An Ủi khác để sống với các con mãi mãi. (aiōn )
Nimar isemiye loch ewi ji duto mondo omi ji duto misemiye oyud ngima mochwere. (aiōnios )
Cha đã trao cho Con uy quyền trên cả nhân loại, để Con ban sự sống vĩnh cửu cho những người Cha đã giao thác. (aiōnios )
To ngima mochwere ema: ni mondo gingʼeyi in Nyasaye makende mar adier, kod Yesu Kristo, Jal miseoro. (aiōnios )
Họ được sống vĩnh cửu khi nhận biết Cha là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất, và nhìn nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Ngài sai đến. (aiōnios )
nikech ok inijwangʼa ei liel, to bende ok niyie Ngʼati Maler ringre tow. (Hadēs )
Vì Chúa không bỏ rơi linh hồn tôi trong Âm Phủ, cũng chẳng để Đấng Thánh của Chúa bị rữa nát. (Hadēs )
Ne oneno gik mane biro timore nyime, omiyo nowuoyo kuom chier mar Kristo ni ne ok bi jwangʼo ringre ei liel mi ringre tow. (Hadēs )
Đa-vít đã thấy và báo trước sự sống lại của Đấng Mết-si-a. Người nói rằng Đức Chúa Trời sẽ không bỏ Đấng Mết-si-a nơi âm phủ hay để cho thân thể Đấng ấy rữa nát. (Hadēs )
To pod nyaka obedie e polo nyaka chop kinde ma Nyasaye ketoe gik moko duto kare, mana kaka nosesingore chon gi dho jonabi mage maler. (aiōn )
Hiện nay Chúa Giê-xu còn phải ở lại thiên đàng cho đến thời kỳ phục hưng vạn vật, như điều Đức Chúa Trời đã phán dạy từ xưa, qua môi miệng các nhà tiên tri thánh. (aiōn )
Eka Paulo gi Barnaba nomedo wuoyo gi chir kagiwacho niya, “Ne bernwa mondo un ema wayalnu Wach Nyasaye mokwongo. To nikech udage kendo nikech ok ukwanoru ka joma owinjore yudo ngima mochwere, koro waweyou mondo wayal wachni ni joma ok jo-Yahudi. (aiōnios )
Phao-lô và Ba-na-ba dõng dạc tuyên bố: “Đạo Chúa được truyền giảng cho anh chị em trước, nhưng anh chị em khước từ và xét mình không đáng được sống vĩnh cửu, nên chúng tôi quay sang dân ngoại. (aiōnios )
Kane joma ok jo-Yahudi owinjo wachno, negimor kendo negirwako wach Ruoth Nyasaye, kendo joma nochan-negi yudo ngima mochwere noyie kuom Yesu. (aiōnios )
Khi dân ngoại nghe xong đều vui mừng ca tụng Phúc Âm. Những người được định cho sự sống vĩnh cửu đều tin Chúa. (aiōnios )
wechegi ongʼere chon, ema owacho. (aiōn )
Chúa đã báo trước những việc ấy từ xưa.’ (aiōn )
Nyaka aa chakruok mar piny, gik ma ok ne mag Nyasaye, kaka tekone mochwere gi kite, osenenore malongʼo ka gifwenyore e gik mosechweyo, mondo omi dhano kik wuondre ni kiagi. (aïdios )
Từ khi sáng tạo trời đất, những đặc tính vô hình của Đức Chúa Trời—tức là quyền năng vô tận và bản tính thần tính—đã hiển nhiên trước mắt mọi người, ai cũng có thể nhận thấy nhờ những vật hữu hình, nên họ không còn lý do để không biết Đức Chúa Trời. (aïdios )
Negiloko adiera mar Nyasaye odoko miriambo kendo negilamo ka gitiyo ni gik mochwe kar tiyo ni Nyasaye ma Jachwech, mipako nyaka chiengʼ Amin. (aiōn )
Họ tráo đổi chân lý của Đức Chúa Trời bằng chuyện giả dối và thờ phượng tạo vật thay cho Tạo Hóa, là Đấng đáng được tôn thờ muôn đời! A-men. (aiōn )
Ne joma osetimo kinda kuom timo maber, ka gidwaro duongʼ kod luor, kod gik ma ok tho, enomi ngima mochwere. (aiōnios )
Người nào bền lòng vâng phục Chúa, tìm kiếm vinh quang, danh dự, và những giá trị vĩnh cửu, sẽ được sự sống đời đời. (aiōnios )
mondo kaka richo nobedo gi loch mokelo tho, e kaka ngʼwono bende obedie gi loch kuom tim makare, makelo ngima mochwere kuom Yesu Kristo Ruodhwa. (aiōnios )
Trước kia, tội lỗi hoành hành khiến loài người phải chết, nhưng ngày nay ơn phước Đức Chúa Trời ngự trị, nên chúng ta sạch tội và được sự sống vĩnh cửu, nhờ công lao Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta. (aiōnios )
To ka koro osegonyu kuom richo mi ubedo wasumbini mag Nyasaye, ohala muyudo kelo ngima maler ma gikone en ngima mochwere. (aiōnios )
Nhưng ngày nay anh chị em được giải thoát khỏi tội lỗi, để “làm nô lệ” cho Đức Chúa Trời, kết quả là được thánh hóa, và cuối cùng được sống vĩnh cửu. (aiōnios )
Nikech misach richo en tho, to mich mar Nyasaye en ngima mochwere kuom Kristo Yesu Ruodhwa. (aiōnios )
Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là đời sống vĩnh cửu trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta. (aiōnios )
Gin bende ema kwerewa madongo noa kuomgi, kendo kata mana Kristo, kuom anywolane kaka dhano, bende oa kuomgi; En ma en Nyasaye kuom duto, kendo mipako nyaka chiengʼ! Amin. (aiōn )
Họ thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp; về phần xác, Chúa Cứu Thế cũng thuộc dòng dõi ấy. Nhưng Ngài vốn là Đức Chúa Trời, Đấng cai trị mọi vật và đáng được chúc tụng muôn đời! A-men. (aiōn )
“kata ni, ‘En ngʼa mabiro lor ei bur?’” (tiende ni, mondo ogol Kristo oa kuom joma otho). (Abyssos )
Cũng đừng nói rằng: ‘Ai sẽ xuống nơi cõi chết’ (ngụ ý rước Chúa Cứu Thế lên).” (Abyssos )
Nimar Nyasaye osemiyo ji duto obedo joma otamore winje mondo okech ji duto. (eleēsē )
Vì Đức Chúa Trời đã đặt mọi người vào địa vị không vâng phục, để tỏ ân khoan hồng cho cả nhân loại. (eleēsē )
Nimar gik moko duto oa kuome, kendo gintie nikech en, kendo gin mage duto. Duongʼ obed mare nyaka chiengʼ! Amin. (aiōn )
Vì muôn vật do Chúa sáng tạo, đều tồn tại nhờ Ngài và vì Ngài. Nguyện vinh quang vĩnh viễn thuộc về Ngài! A-men. (aiōn )
Kik koro ulu kit ngima pinyni, to lokreuru ka parou doko manyien pile, eka unubed gi nyalo mar pimo kendo ngʼeyo dwach Nyasaye, ma en dwache maber, mowinjore kendo malongʼo chuth. (aiōn )
Đừng đồng hóa với người đời, nhưng hãy để Chúa đổi mới tâm trí mình; nhờ đó anh chị em có thể tìm biết ý muốn của Đức Chúa Trời, và hiểu rõ điều gì tốt đẹp, trọn vẹn, hài lòng Ngài. (aiōn )
Duongʼ obed ni Nyasaye manyalo miyo uchung motegno kaluwore gi Injili mara kod wach ma alando kuom Yesu Kristo kendo kaluwore gi fweny mar gik mosepandi kuom higni mangʼeny mosekalo, (aiōnios )
Tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đấng có quyền cho anh chị em sống vững mạnh bởi Phúc Âm tôi truyền giảng. Đây là sứ điệp về Chúa Cứu Thế Giê-xu bày tỏ chương trình của Ngài cho anh chị em dân ngoại, đúng theo huyền nhiệm được giữ kín suốt các thời đại trước. (aiōnios )
to koro oseelgi kendo osemi ji ongʼeyogi kaluwore gi ndiko mag jonabi, mana kaka Nyasaye mochwere nochiko, mondo joma ok jo-Yahudi duto oyie kuome kendo owinje. (aiōnios )
Nhưng nay, huyền nhiệm ấy được bày tỏ và công bố cho tất cả dân ngoại theo lệnh Đức Chúa Trời hằng sống, như Thánh Kinh đã báo trước, để họ tin nhận và vâng phục Chúa. (aiōnios )
Duongʼ obed ni Nyasaye kuom Yesu Kristo nyaka chiengʼ nimar en kende ema oriek! Amin. (aiōn )
Nguyền vinh quang vĩnh viễn quy về Đức Chúa Trời duy nhất, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. A-men. (aiōn )
Ere ngʼama jarieko? Ere japuonj chik? Ere jatwak molony moloyo e pinyni? Donge Nyasaye osemiyo rieko mar pinyni odoko fuwo? (aiōn )
Nhà triết học ở đâu? Nhà văn hào ở đâu? Nhà hùng biện, thuyết khách lừng danh một thời ở đâu? Đức Chúa Trời đã chẳng khiến sự khôn ngoan của thế gian trở thành khờ dại sao? (aiōn )
Kata kamano, wayalo rieko ni joma otegno, to ok rieko mag tiengʼni, kata mag ruodhi mandalogi, mabiro lal nono. (aiōn )
Tuy nhiên, với những tín hữu trưởng thành, chúng tôi cũng giảng về sự khôn ngoan, nhưng không phải khôn ngoan của đời này, hay của các nhà lãnh đạo thế giới, là những người sẽ chìm vào quên lãng. (aiōn )
Ooyo, wawuoyo kuom rieko mopondo mar Nyasaye, ma en rieko mosebedo kopandi kendo mane Nyasaye oikonwa nyaka aa chakruok piny mondo wayud duongʼ. (aiōn )
Chúng tôi giảng đạo của Đức Chúa Trời, là huyền nhiệm trước kia không ai biết, nhưng từ nghìn xưa Đức Chúa Trời đã dành sẵn để đem lại cho chúng ta vinh quang muôn đời. (aiōn )
Jotend pinyni kata achiel ok nowinjo tiend rieko mwayaloni, nikech ka dine giwinje, to ok dine giguro Ruodh Duongʼ. (aiōn )
Không một nhà lãnh đạo nào của thế giới biết được huyền nhiệm này. Vì nếu biết rõ, họ đã chẳng đóng đinh Chúa vinh quang trên cây thập tự. (aiōn )
Kik uwuondru. Ka ngʼato kuomu paro ni oriek e tiengʼni gi rieko mar pinyni, to onego olokre ngʼama ofuwo eka odok mariek. (aiōn )
Đừng ai tự lừa dối! Ai trong anh chị em tưởng mình khôn ngoan theo đời này, hãy nhìn nhận mình khờ dại để được khôn ngoan thật. (aiōn )
Kuom mano, ka gima achamo nyalo miyo wadwa donjo e richo, to abiro weyo chamo ringʼo chuth mondo kik ami opodhi. (aiōn )
Cho nên, nếu thức ăn gây cho anh chị em tôi phạm tội, tôi sẽ chẳng bao giờ ăn thịt để anh chị em tôi khỏi vấp phạm. (aiōn )
Gigi duto notimorenigi kaka ranyisi, kendo nondiknwagi mondo gibednwa siem, wan ma wadak e ndalo ma giko piny chiegnini. (aiōn )
Các việc ấy xảy ra để làm gương cho chúng ta, được ghi vào sử sách để cảnh giác chúng ta—những người sống vào thời đại cuối cùng. (aiōn )
In tho, koro ere lochni? In tho, lit mikelo ni kanye? (Hadēs )
Này sự chết, ngươi chiến thắng nơi nào? Này sự chết, nọc độc ngươi để đâu?” (Hadēs )
Joma kamago otamore yie nikech nyasach pinyni osedino pachgi mondo kik gine ler mar Injili manyiso duongʼ mar Kristo, ma en e kido mar Nyasaye. (aiōn )
Vì Sa-tan, thần của đời này đã làm mờ tối tâm trí người vô tín, khiến họ không nhìn thấy ánh sáng Phúc Âm, không hiểu lời truyền giảng về vinh quang Chúa Cứu Thế, là hiện thân của Đức Chúa Trời. (aiōn )
Nikech chandruok mwayudo matindo kendo makadho piyo biro kelonwa duongʼ mosiko kendo moloyo chandruogego duto. (aiōnios )
Vì nỗi khổ đau nhẹ nhàng, tạm thời sẽ đem lại cho chúng ta vinh quang rực rỡ muôn đời. (aiōnios )
Omiyo ok wachom wengewa kuom gik mineno, to kuom gik ma ok ne. Nikech gik mineno gi wangʼ rumo, to gik ma ok ne siko nyaka chiengʼ. (aiōnios )
Chúng ta chẳng tìm tòi những điều thấy được, nhưng chú tâm vào những điều không thấy được; vì điều thấy được chỉ là tạm thời, còn điều không thấy được là trường tồn, bất diệt. (aiōnios )
Nikech wangʼeyo ni ka kiru mwadakieni okethi, to wan gi ot ma Nyasaye osegeronwa e polo, ma en ot mosiko, ma lwet dhano ok ogero. (aiōnios )
Chúng ta biết nhà bằng đất tạm thời của chúng ta đổ nát, chúng ta vẫn còn nhà đời đời trên trời, do Đức Chúa Trời sáng tạo, không phải do loài người. (aiōnios )
Mana kaka ondiki niya, “Gisepogo gigegi ne joma odhier, bergi osiko nyaka chiengʼ.” (aiōn )
Như Thánh Kinh chép: “Người phân phát của cải cứu giúp người nghèo. Ân đức người tồn tại mãi mãi.” (aiōn )
Nyasaye ma Wuon Ruodhwa Yesu ma ipako nyaka chiengʼ, ongʼeyo ni ok ariambi. (aiōn )
Đức Chúa Trời là Cha của Chúa Giê-xu chúng ta, Đấng được ca ngợi muôn đời, biết rõ tôi nói thật. (aiōn )
Yesu nochiwore nikech richowa mondo ogonywa waa e kethruok mag ndalogi, kaluwore gi dwaro mar Nyasachwa kendo Wuonwa. (aiōn )
Chúa Cứu Thế đã hiến dâng mạng sống để chuộc tội chúng ta và cứu chúng ta khỏi cuộc đời gian ác hiện tại, đúng theo ý định của Đức Chúa Trời, Cha chúng ta. (aiōn )
Duongʼ mondo odogne Nyasaye manyaka chiengʼ. Amin. (aiōn )
Cầu xin Ngài được vinh quang muôn đời vô cùng! A-men. (aiōn )
Ngʼat ma ochwoyo kuom ringruok, noka kethruok, to ngʼat ma ochwoyo kuom Roho, noka ngima mochwere. (aiōnios )
Người gieo giống xấu theo bản tính cũ sẽ gặt hái sự hư hoại, diệt vong. Người gieo giống tốt của Chúa Thánh Linh sẽ gặt hái sự sống vĩnh cửu do Chúa Thánh Linh ban tặng. (aiōnios )
kuma oyombo loch duto gi teko gi telo gi nyalo kod nyinge duto minyalo chiw ok e ndaloni kende to kata e ndalo mabiro. (aiōn )
Địa vị Chúa Cứu Thế cao cả hơn địa vị mọi thể chế, mọi thẩm quyền, mọi sức mạnh, mọi lãnh đạo, hay bất cứ quyền lực nào. Uy danh Ngài lừng lẫy hơn tất cả các uy danh trong thế giới hiện tại và tương lai. (aiōn )
mane udakie ka uluwo timbe piny, kod timbe ruodh pinyni man-gi loch e kor polo, ma bende tekone tiyo e chuny joma ok winj wach Nyasaye. (aiōn )
Anh chị em theo nếp sống xấu xa của người đời, vâng phục Sa-tan, bạo chúa của đế quốc không gian, hiện đang hoạt động trong lòng người chống nghịch Đức Chúa Trời. (aiōn )
mondo eka onyisgo tienge duto mabiro mwandu mar ngʼwonone mokalo apima, ma wabiro yudo kuom kech mosekechowago kuom Kristo Yesu. (aiōn )
Muôn đời về sau, Ngài có thể tiếp tục bày tỏ ơn phước, nhân từ phong phú vô tận cho mọi người tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu. (aiōn )
kendo mondo anyis ji duto ongʼe maler tichna kuom wach mopondoni, mosebedo kopandi kuom Nyasaye mane ochweyo gik moko duto e higni mokalo. (aiōn )
và để giải thích cho mọi người biết Đức Chúa Trời cũng là Chúa Cứu Thế của tất cả dân tộc. Huyền nhiệm này đã được Đấng Tạo Hóa giữ bí mật trong các thời đại trước. (aiōn )
Notimo ma kuom Kristo Yesu Ruodhwa, kaluwore gi dwarone mane osechano chakre chon ni notim. (aiōn )
Đó là chương trình Đức Chúa Trời hoạch định từ trước, do Chúa Cứu Thế Giê-xu thực hiện. (aiōn )
oyud duongʼ e kanyakla mar joma oyie kendo kuom Kristo Yesu e tienge duto manyaka chiengʼ. Amin. (aiōn )
Nguyện Đức Chúa Trời được ca ngợi muôn đời vô cùng, vì Ngài đã lập chương trình cứu rỗi Hội Thánh, do Chúa Cứu Thế Giê-xu thực hiện! A-men. (aiōn )
Nikech wasigu mwakedogo ok gin dhano, to wakedo gi jotelo, kod ruodhi mag piny motimo mudhoni, kaachiel gi lang chuny maricho modak e kor polo. (aiōn )
Vì chúng ta không chiến đấu chống người trần gian nhưng chống lại quyền lực vô hình đang thống trị thế giới tối tăm này và chống các tà linh trên trời. (aiōn )
Duongʼ obed ni Nyasachwa kendo Wuonwa manyaka chiengʼ. Amin. (aiōn )
Đức Chúa Trời, Cha chúng ta được vinh quang đời đời. A-men. (aiōn )
ma en wach manopandi kuom higni gi tienge mangʼeny, to koro oseel tiende ni jomaler. (aiōn )
Chương trình ấy được Đức Chúa Trời giữ kín từ muôn đời trước, nhưng hiện nay đã bày tỏ cho những người yêu mến Ngài. (aiōn )
Giniyud kum ma en lal manyaka chiengʼ, koriembogi oko e nyim Ruoth Nyasaye kendo mabor gi tekone man-gi duongʼ. (aiōnios )
Họ sẽ bị hình phạt đời đời trong địa ngục, vĩnh viễn xa cách mặt Chúa, không còn thấy vinh quang và quyền năng Ngài. (aiōnios , questioned)
Mad Ruodhwa Yesu Kristo owuon kod Nyasaye Wuonwa, ma noherowa momiyowa jip mosiko kod geno maber, kuom ngʼwonone, (aiōnios )
Cầu xin Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta, và Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và ban ơn cho chúng ta được niềm an ủi vĩnh cửu và hy vọng tốt lành, (aiōnios )
To kuom mano Yesu Kristo nokecha an mane an jaricho ewi joricho duto, mondo onyis ngʼwonone maduongʼ maonge giko kuoma. Nodwaro mondo abed ranyisi, ne joma biro yie kuome mondo oyud ngima mochwere. (aiōnios )
Nhưng Chúa rộng lòng thương xót ta, kẻ xấu xa nhất, để chứng tỏ lòng kiên nhẫn vô hạn của Ngài, và dùng ta làm gương cho người khác tin Ngài để được sống vĩnh hằng. (aiōnios )
Opak Ruodhwa mochwere! En Ruoth ma ok tho, kendo ma ok ne. En e Nyasaye kende. Duongʼ kod pak odogne nyaka chiengʼ. Amin. (aiōn )
Nguyện Vua muôn đời, bất diệt, vô hình, là Đức Chúa Trời duy nhất được vinh dự và vinh quang đời đời vô cùng. A-men. (aiōn )
Ked lweny maber mar yie, kendo mak matek wach ngima mochwere mane oluongine chiengʼ mane itimo neno maber e nyim joneno mathoth. (aiōnios )
Con hãy chiến đấu vì đức tin, giữ vững sự sống vĩnh cửu Chúa ban khi con công khai xác nhận niềm tin trước mặt nhiều nhân chứng. (aiōnios )
Jal ma ok tho kendo modak e ler ma dhano ok nyal ngʼiyo tir; kendo Jal maonge ngʼama oseneno kata manyalo neno. Duongʼ gi loch duto odogne nyaka chiengʼ. Amin. (aiōnios )
Chỉ một mình Ngài là Đấng bất tử, là Đấng ở trong cõi sáng láng không ai đến gần được. Không một người nào thấy Ngài. Cầu xin vinh dự và quyền năng đời đời đều quy về Ngài! A-men. (aiōnios )
Nyis joma nigi mwandu e pinyni mondo kik gibed jongʼayi bende kik giket genogi kuom mwandu mabiro leny nono to giket genogi kuom Nyasaye mamiyowa gik moko duto mabup mondo wabedgo mamor. (aiōn )
Con hãy khuyên bảo người giàu có ở đời này: Đừng kiêu ngạo và tin tưởng nơi tiền của không bền lâu, nhưng phải đặt hy vọng nơi Đức Chúa Trời, Đấng rộng rãi ban mọi vật cho chúng ta được hưởng. (aiōn )
ma nowarowa kendo noluongowa mondo wadag e ngima maler. Mano ok nikech wasetimone gimoro maber to nikech dwarone owuon kuom ngʼwonone. Ne omiyowa ngʼwononi kuom Kristo Yesu kane piny pok obetie, (aiōnios )
Chúa đã cứu chúng ta, gọi chúng ta vào chức vụ thánh, không do công đức riêng nhưng theo ý định và ơn phước Ngài dành cho chúng ta trong Chúa Cứu Thế từ trước vô cùng. (aiōnios )
Omiyo adhil kuom duto nikech adwaro ni joma Nyasaye oyiero bende oyudie warruok miyudo kuom Kristo Yesu, kendo makelo duongʼ mochwere. (aiōnios )
Vì thế, ta chịu đựng mọi gian khổ để những người được Chúa lựa chọn có cơ hội tiếp nhận ơn cứu rỗi và được vinh quang vĩnh cửu trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. (aiōnios )
nimar Dema oseringo oweya modhi Thesalonika nikech nohero pinyni moloyo. Kreske to osedhi e piny Galatia, kendo Tito bende osedhi e piny Dalmatia. (aiōn )
vì Đê-ma ham mê đời này, bỏ ta đi Tê-sa-lô-ni-ca rồi. Cơ-ra-sen qua xứ Ga-la-ti và Tích lên phục vụ tại Nam tư. (aiōn )
Omiyo angʼeyo ni Ruoth pod biro resa kuom gimoro amora marach madwaro hinya nyaka chop atundi e pinyruodh polo. En ema mondo oyud duongʼ mosiko nyaka chiengʼ. Amin. (aiōn )
Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và đưa ta vào Vương Quốc Trời. Cầu xin Ngài được vinh quang mãi mãi vô cùng! A-men. (aiōn )
kuom geno yudo ngima mochwere, mane Nyasaye, ma ok riambi osesingore chon ni nomiwa. (aiōnios )
Cốt để họ được sống vĩnh cửu, bởi Đức Chúa Trời—Đấng không hề nói dối—đã hứa ban sự sống ấy cho họ trước khi sáng tạo trời đất. (aiōnios )
Ngʼwonono puonjowa mondo wakwed timbe maricho kod gombo mochido mag piny, kendo mondo wabed kawaritore e ngima makare mamiyo Nyasaye duongʼ e kindeni, (aiōn )
Một khi hưởng ơn phước đó, chúng ta từ bỏ dục vọng trần gian và tinh thần vô đạo, ăn ở khôn khéo, thánh thiện và sùng kính Đức Chúa Trời. (aiōn )
mondo ka oseketwa kare kuom ngʼwonone to wabed jocham mwandune, ka wan gi geno mar yudo ngima mochwere. (aiōnios )
Nhờ đó, bởi ơn phước Ngài, chúng ta được kể là công chính và được thừa hưởng sự sống vĩnh cửu.” (aiōnios )
Nyalo bet ni Onesimo nowuok iri kuom kinde manok mondo iyud thuolo mar kawe chuth bangʼe, (aiōnios )
Có lẽ Ô-nê-sim đã xa anh một thời gian ngắn, để trở về với anh mãi mãi, (aiōnios )
to e ndalo mogikgi osewuoyo kodwa kokalo kuom Wuode owuon. Wuodeno ema oseketo mwandune duto e lwete, kendo en ema nochweyo gik moko duto kuome. (aiōn )
Nhưng trong những ngày cuối cùng này, Đức Chúa Trời sai Con Ngài là Chúa Cứu Thế dạy dỗ chúng ta. Đức Chúa Trời đã nhờ Con Ngài sáng tạo vũ trụ, cũng cho Con Ngài thừa kế quyền chủ tể vạn vật. (aiōn )
To kuom Wuowi to owuoye niya, “Lochni nosik nyaka chiengʼ, yaye Nyasaye, kendo tim makare ema nobed kaka ludh loch e pinyruodhi. (aiōn )
Nhưng Đức Chúa Trời phán về Con Ngài: “Ngai Đức Chúa Trời sẽ trường tồn vĩnh cửu; Chúa dùng công lý cai trị nước Ngài. (aiōn )
Owacho bende kamachielo niya, “In Jadolo nyaka chiengʼ koluwo kit dolo mar Melkizedek.” (aiōn )
Rồi Đức Chúa Trời xác nhận: “Con làm Thầy Tế Lễ đời đời theo dòng Mên-chi-xê-đéc.” (aiōn )
kendo bangʼ ka nosekete kare chuth to nodoko wuon warruok mochwere ma ji duto mawinjo wachne yudo. (aiōnios )
Khi đã hoàn thành, Chúa làm Nguồn Cứu Rỗi đời đời cho những ai vâng phục Ngài. (aiōnios )
kod puonj kuom kit batiso mopogore opogore, kata kuom keto lwedo ewi ji, kata kuom wach chier aa kuom joma otho, kata kuom bura mabiro. (aiōnios )
Cũng không cần bài học về lễ báp-tem, việc đặt tay cầu nguyện, sự sống lại của người chết, hay sự phán xét sau cùng. (aiōnios )
joma osebilo ber mar Wach Nyasaye, mi ongʼeyo teko mar piny mabiro, (aiōn )
thực nghiệm Đạo tốt lành của Chúa và quyền năng phi thường của thế giới tương lai, (aiōn )
kama Yesu ma nosetelonwa nosedonjoe. Osedoko jadolo maduongʼ manyaka chiengʼ, koluwo kit dolo mar Melkizedek. (aiōn )
Chúa Giê-xu đã vào đó trước chúng ta để cầu thay cho chúng ta. Chúa trở nên Thầy Thượng Tế đời đời theo dòng Mên-chi-xê-đéc. (aiōn )
Nikech Muma timo neno kuome niya, “In Jadolo nyaka chiengʼ koluwo kit dolo mar Melkizedek.” (aiōn )
Vì Thánh Kinh chép: “Con làm Thầy Tế Lễ đời đời theo dòng Mên-chi-xê-đéc.” (aiōn )
to en to nobedo Jadolo gi kwongʼruok ka Nyasaye nowachone niya, “Jehova Nyasaye osekwongʼore kendo ok nolok pache, osesingore niya, ‘In Jadolo nyaka chiengʼ.’” (aiōn )
nhưng Chúa Giê-xu đã được lập lên bằng lời thề. Vì Đức Chúa Trời đã phán với Ngài: “Chúa Hằng Hữu đã thề và sẽ không bao giờ thay đổi: ‘Con làm Thầy Tế Lễ đời đời.’” Suốt cả lịch sử, không một thầy tế lễ nào được Đức Chúa Trời thề hứa như thế. (aiōn )
to nikech Yesu ngima nyaka chiengʼ, tich dolo mare osiko. (aiōn )
Nhưng Chúa Giê-xu sống vĩnh cửu nên giữ chức tế lễ đời đời chẳng cần đổi thay. (aiōn )
Nikech chik keto joma nyap mondo obed jodolo madongo, to weche kwongʼruok mane obiro achien bangʼ chik, noketo Wuowi, makoro oseket kare chuth nyaka chiengʼ. (aiōn )
Trước kia, luật pháp Môi-se bổ nhiệm những người bất toàn giữ chức thượng tế lễ. Nhưng sau này, Đức Chúa Trời dùng lời thề bổ nhiệm Con Ngài, là Đấng trọn vẹn đời đời. (aiōn )
Nodonjo iye nyaka Kama Ler Moloyo, to ne ok odhi gi remb diek gi rwedhi. Notimo misango dichiel kendo mogik gi rembe owuon ma nokelonwago warruok mosiko. (aiōnios )
Ngài không mang máu của dê đực, bò con, nhưng dâng chính máu Ngài trong Nơi Chí Thánh, để đem lại sự cứu rỗi đời đời cho chúng ta. (aiōnios )
koro remb Kristo to nyalo pwodho ji e yo malich machal nade! Nochiwore ne Nyasaye kuom Roho mosiko kaka misango maonge songa, omiyo rembe biro luoko chunywa maiye mi wawe timbe motho, mondo wati ne Nyasaye mangima! (aiōnios )
huống chi máu của Chúa Cứu Thế lại càng có năng lực tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi hành vi tội lỗi, để chúng ta phụng sự Đức Chúa Trời hằng sống cách trong sạch. Vì Chúa Cứu Thế đã nhờ Chúa Thánh Linh hiến dâng thân Ngài làm sinh tế hoàn toàn cho Đức Chúa Trời. (aiōnios )
Kuom mano, Kristo e jathek mar singruok manyien, mamiyo joma oluongi yudo girkeni mosiko mosesingnegi, nikech koro osetho kargi kaka misango mamiyo gibedo thuolo kuom kethogi e bwo singruok mokwongo. (aiōnios )
Do đó, Chúa Cứu Thế làm Đấng Trung Gian của giao ước mới; Ngài đã chịu chết để cứu chuộc loài người khỏi mọi vi phạm chiếu theo giao ước cũ. Nhờ Ngài, những ai được Đức Chúa Trời mời gọi đều tiếp nhận phước hạnh vĩnh cửu như Đức Chúa Trời đã hứa. (aiōnios )
Ka Kristo ne nyalo timo kamano, to mano ne nyalo chune ni otho nyadi mangʼeny nyaka aa chakruok piny. To koro osefwenyore dichiel kendo mogik e ndalo mogikni mondo ochiw ringre owuon kaka misango magolo richo. (aiōn )
Không lẽ từ khi sáng tạo vũ trụ đến nay, Ngài đã phải chịu chết nhiều lần sao? Không, Chúa Cứu Thế chỉ xuất hiện một lần vào cuối các thời đại, dâng thân Ngài làm sinh tế để xóa sạch tất cả tội lỗi chúng ta. (aiōn )
Yie ema miyo wangʼeyo ni Wach Nyasaye ema nochweyo gik moko duto manie polo gi piny, mi nomiyo gik mantie mineno gi wangʼ owuok kuom gik ma ok ne. (aiōn )
Bởi đức tin, chúng ta biết vũ trụ được sáng tạo bởi lời Đức Chúa Trời và nguồn gốc của vạn vật không phải là những vật hữu hình. (aiōn )
Yesu Kristo ok lokre en achiel, kawuono kendo nyaka chiengʼ. (aiōn )
Hôm qua, ngày nay và cho đến muôn đời, Chúa Cứu Thế Giê-xu không bao giờ thay đổi. (aiōn )
Mad Nyasach kwe ma nochiero Ruodhwa Yesu, ma en Jakwath Maduongʼ mar rombe, kuom remo mar singruok mosiko, (aiōnios )
Cầu xin Đức Chúa Trời Hòa Bình— Đấng đã cho Chúa Giê-xu, Chúa chúng ta sống lại, Đấng Chăn Chiên lớn chăm sóc anh chị em, đúng theo giao ước đời đời ấn chứng bằng máu Ngài— (aiōnios )
olosu udok makare chuth, kutimo timbe mabeyo duto mondo eka utim dwarone. Mad oloswa mi wachal kaka odwaro, kuom Yesu Kristo, monego oyud duongʼ nyaka chiengʼ! Amin. (aiōn )
trang bị cho anh chị em mọi điều cần thiết để thi hành ý muốn của Ngài. Cầu xin Đức Chúa Trời thực hiện trong anh chị em, do quyền năng của Chúa Cứu Thế, những việc đẹp ý Ngài. Vinh quang muôn đời đều quy về Ngài! A-men. (aiōn )
Lep bende en mach kendo piny mopongʼ gi richo e kind fuonde duto mag ringruok. Oketho ringruok duto ka omoko mach mawangʼo ngima dhano duto mi chop en owuon bende wangʼe e Gehena. (Geenna )
Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa. Nó chứa đầy nọc độc, đầu độc cả thân thể. Nó đã bị lửa địa ngục đốt cháy, và sẽ thiêu đốt cả cuộc sống, làm hư hoại con người. (Geenna )
Nikech osenywolu nywol manyien, ok gi kodhi ma towo, to gi kodhi ma ok tow, gi wach Nyasaye mangima kendo mochwere. (aiōn )
Anh chị em đã được tái sinh không phải bởi sự sống dễ hư hoại, nhưng do Lời Sống bất diệt của Đức Chúa Trời. (aiōn )
to wach Ruoth osiko manyaka chiengʼ.” Ma e Injili mane oyalnu. (aiōn )
Nhưng lời của Chúa tồn tại muôn đời.” Và lời đó chính là Phúc Âm được truyền giảng cho anh chị em. (aiōn )
Ka ngʼato en jaland wach, to wach molando Obed mana mar Nyasaye kende. Ka ngʼato tiyo ni ji, to onego otim kamano gi teko ma Nyasaye chiwo, mondo kuom gik moko duto ji opak Nyasaye kuom Yesu Kristo. Duongʼ gi teko mondo obed mare mochwere manyaka chiengʼ. Amin. (aiōn )
Nếu anh chị em truyền bá Phúc Âm, hãy giảng đúng lời Đức Chúa Trời. Nếu anh chị em phục vụ Hội Thánh, hãy sử dụng tất cả năng lực Đức Chúa Trời ban cho mình. Trong bất cứ việc gì, hãy làm sao cho Đức Chúa Trời được tôn vinh qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng đáng được vinh quang, quyền năng đời đời vô cùng! A-men. (aiōn )
Ka useneno chandruok kuom kinde moromo, Nyasach ngʼwono duto, mane oluongou e duongʼne mochwere kuom Kristo Yesu, nomi ubed maler chuth, kogurou udoko motegno e mise ma ok yiengni. (aiōnios )
Sau khi anh chị em chịu đau khổ một thời gian, Đức Chúa Trời, Đấng đầy ơn phước sẽ ban cho anh chị em vinh quang bất diệt trong Chúa Cứu Thế. Chính Đức Chúa Trời sẽ làm cho anh chị em toàn hảo, trung kiên, mạnh mẽ và vững vàng. (aiōnios )
Duongʼ odogne ndalo duto manyaka chiengʼ. Amin. (aiōn )
Ngài cầm quyền vĩnh cửu trên vạn vật! A-men. (aiōn )
kendo unuyud rwak malich ei pinyruoth mochwere mar Ruodhwa kendo Jawarwa Yesu Kristo. (aiōnios )
Đức Chúa Trời sẽ mở rộng cửa tiếp đón anh chị em vào Vương Quốc vĩnh cửu của Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Cứu Rỗi của chúng ta. (aiōnios )
To ka Nyasaye ne ok oweyo ma ok okumo kata mana malaike mane oketho, to ne owitogi e gehena ma en mach ma ok tho, koketogi e mudho mandiwa ka girito kumgi; (Tartaroō )
Đức Chúa Trời đã không dung thứ các thiên sứ phạm tội, nhưng quăng họ vào hỏa ngục, giam họ trong chốn tối tăm để đợi ngày phán xét. (Tartaroō )
To dhiuru nyime kudongo e ngʼwono kod ngʼeyo ma un-go kuom Ruodhwa kendo Jawarwa Yesu Kristo. En ema oyud duongʼ tinende kendo nyaka chiengʼ! Amin. (aiōn )
Nhưng anh chị em hãy tăng trưởng trong ơn phước Chúa và học biết nhiều hơn về Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Cứu Rỗi chúng ta. Cầu xin vinh quang quy về Chúa hiện nay và suốt cả cõi đời đời! A-men. (aiōn )
Ngimani nofwenyore mine wanene, omiyo wawuoyo kuome, kendo wanyisou wach ngima mochwere mane nigi Wuoro kendo mane onyiswa. (aiōnios )
Sự Sống đã đến trần gian và chúng tôi xin xác quyết chúng tôi đã thấy Sự Sống ấy: Chúng tôi nói về Chúa Cứu Thế, Nguồn Sống vĩnh cửu! Ngài ở với Chúa Cha và đã xuống đời, sống với chúng tôi. (aiōnios )
Pinyni kaachiel gi gombo duto kadho, to ngʼat matimo dwach Nyasaye nobed mangima nyaka chiengʼ. (aiōn )
Thế gian đang suy vong và tham dục nó cũng bị tiêu diệt, nhưng ai làm theo ý muốn Đức Chúa Trời sẽ còn lại đời đời. (aiōn )
To ma e gima Kristo owuon nosingore ni nomiwa, ma en ngima mochwere. (aiōnios )
Chính Đức Chúa Trời đã hứa ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. (aiōnios )
Ngʼama mon gi owadgi en janek, to ungʼeyo ni janek onge gi ngima mochwere. (aiōnios )
Ai ghét anh chị em mình là kẻ giết người; đã giết người làm sao có sự sống bất diệt? (aiōnios )
To ma e gima Nyasaye osewacho: Nyasaye osemiyowa ngima mochwere kendo ngimano ni kuom wuode. (aiōnios )
Đức Chúa Trời đã tuyên bố Ngài ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu và Chúa Cứu Thế là Nguồn Sống. (aiōnios )
Andikonu wechegi, un joma oyie kuom nying Wuod Nyasaye, mondo ungʼe ni un gi ngima mochwere. (aiōnios )
Tôi viết điều đó để anh chị em biết rõ nhờ tin Con Đức Chúa Trời mà anh chị em được sống vĩnh cửu. (aiōnios )
Wangʼeyo bende ni Wuod Nyasaye osebiro kendo osemiyowa rieko mar winjo tiend wach, mondo wangʼe ngʼat ma ja-adiera, ngʼat makoro wanie iye, en wuode Yesu Kristo. En e Nyasaye madier kendo en e ngima mochwere. (aiōnios )
Chúng ta cũng biết Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời, đã đến giúp chúng ta hiểu biết và tìm gặp Đức Chúa Trời Chân Thật. Hiện nay, chúng ta đang sống trong Đức Chúa Trời Chân Thật vì chúng ta ở trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con Ngài, Ngài là Đức Chúa Trời Chân Thật và Nguồn Sống vĩnh cửu. (aiōnios )
nikech adiera manie iwa biro siko kodwa nyaka chiengʼ: (aiōn )
vì chân lý tồn tại trong chúng ta và ở với chúng ta muôn đời. (aiōn )
Kata mana malaike mane ok obedo kuondegi mag loch mane omigi, mago mane owuok oweyo keregi mane oketgie, gin bende osekanogi e mudho mandiwa, kotwegi gi nyoroche ma ok chodi nyaka chiengʼ, ka girito kum e odiechiengʼ maduongʼ. (aïdios )
Anh chị em nên nhớ, những thiên sứ không chịu giữ địa vị của mình mà sa vào tội lỗi đã bị Đức Chúa Trời xiềng lại mãi mãi trong ngục tối để đợi ngày phán xét. (aïdios )
Kamano bende Sodom gi Gomora, kaachiel gi mier molworogi ne jochiwore ne chode gi anjawo. Gin gibedo kaka ranyisi mar joma ikumo kiwangʼo e mach manyaka chiengʼ. (aiōnios )
Cũng đừng quên hai thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng các thị trấn chung quanh đầy dẫy mọi thứ dâm ô, kể cả tình dục đồng giới. Các thành phố ấy đều bị lửa tiêu diệt và trở thành tấm gương cảnh cáo cho chúng ta biết có một hỏa ngục cháy đời đời để hình phạt tội nhân. (aiōnios )
Jogi onge gi wichkuot mana ka apaka mager mar nam, madhwolo buoyo kendo gibagni mana ka sulwe mabayo, gin joma osekan-negi kum mar mudho mandiwa manyaka chiengʼ. (aiōn )
Họ để lại phía sau những tủi nhục nhuốc nhơ như đám bọt biển bẩn thỉu trôi bập bềnh theo những lượn sóng tấp vào bờ. Họ vụt sáng như mảnh sao băng, để rồi vĩnh viễn rơi vào vùng tối tăm mù mịt. (aiōn )
Sikuru ei hera Nyasaye ka urito ngʼwono mar Ruodhwa Yesu Kristo mondo okelu e ngima mochwere. (aiōnios )
Hãy ở luôn trong vòng tay yêu thương của Đức Chúa Trời trong khi chờ đợi Chúa Cứu Thế Giê-xu nhân từ hoàn thành sự sống vĩnh cửu trong anh chị em. (aiōnios )
mad duongʼ makende, gi loch gi teko, kod nyalo odogne Nyasaye Jawarwa kuom Yesu Kristo Ruodhwa, e tienge duto, sani kendo nyaka chiengʼ! Amin. (aiōn )
Tất cả vinh quang Ngài đều quy về Đức Chúa Trời duy nhất, Đấng Cứu Rỗi chúng ta do Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta. Vâng, tất cả vinh quang, uy nghiêm, sức mạnh, và quyền thế đều thuộc về Chúa từ trước vô cùng, hiện nay, và cho đến đời đời! A-men. (aiōn )
mi osemiyo wadoko oganda mag pinyruodhi kod jodolo matiyone Nyasache kendo Wuon mare kendo wuon-gi, mad duongʼ odogne manyaka chiengʼ! Amin. (aiōn )
Chúa đã làm cho chúng ta trở nên công dân Vương Quốc Chúa, làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha. Cầu xin vinh quang và uy quyền thuộc về Ngài mãi mãi vô tận! A-men. (aiōn )
An e Jal Mangima; ne atho, to koro angima nyaka chiengʼ! An-gi rayaw mar tho kod mar piny joma otho. (aiōn , Hadēs )
Là Đấng Sống, Ta đã chết, nhưng nay Ta sống đời đời, giữ chìa khóa cõi chết và âm phủ. (aiōn , Hadēs )
E seche duto ka gik mangimago nedwoko erokamano ka gipako kendo puoyo Jal mane obedo e kom duongʼ kendo mangima nyaka chiengʼ; (aiōn )
Mỗi khi các sinh vật tôn vinh, tung hô và cảm tạ Đấng ngồi trên ngai, (là Đấng hằng sống đời đời), (aiōn )
to jodongo piero ariyo gangʼwen-go ne podho e nyim ngʼat mobet e kom duongʼ ka gilamo Jal Mantie nyaka chiengʼ. Negibolo osimbegi e nyim kom duongʼ kagiwacho niya: (aiōn )
thì hai mươi bốn trưởng lão quỳ xuống trước mặt Ngài, thờ lạy Ngài vĩnh viễn, vứt vương miện trước ngai và ca ngợi: (aiōn )
Eka nawinjo ka gik mangima duto manie polo kendo e piny kod e bwo piny, kendo e nam, kendo gigo duto mochwe modak eigi, kawer niya: “Pak gi duongʼ kod loch obed ni Jal mobet e kom duongʼ gi Nyarombo manyaka chiengʼ!” (aiōn )
Tôi lại nghe tất cả tạo vật trên trời, dưới đất, bên dưới đất, và trong biển đều lên tiếng: “Nguyện chúc tụng, vinh dự, vinh quang và uy quyền thuộc về Đấng ngồi trên ngai và thuộc về Chiên Con đời đời vô tận.” (aiōn )
Nangʼicho to ne aneno faras marabuor e nyima! Ngʼat moidhe niluongo ni Tho, to piny joma otho ne luwo bangʼe machiegni. Ne omigi teko kuom bath piny moromo achiel kuom angʼwen mondo gimi lweny kata kech kata dera kata tuoche kata ondiegi maricho mag bungu mondo gineg ji. (Hadēs )
Tôi thấy một con ngựa màu xám nhạt, người cưỡi tên là Tử Vong, có Âm Phủ theo sau. Họ nhận được quyền thống trị một phần tư địa cầu, dùng chiến tranh, đói kém, bệnh tật, và thú dữ giết hại loài người. (Hadēs )
Kagiwacho niya, “Amin! Pak gi duongʼ kod rieko gi erokamano gi luor kod teko gi nyalo obed ni Nyasachwa, nyaka chiengʼ. Amin!” (aiōn )
Họ ca tụng: “A-men! Sự chúc tụng, vinh quang, và khôn ngoan, cảm tạ và vinh dự, uy quyền và sức mạnh thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta đời đời vô tận! A-men.” (aiōn )
Eka malaika mar abich nogoyo turumbete, mine aneno sulwe moro mane oselwar e piny koa e polo. Sulweno ne omi kifungu mar bur matut maonge gikone. (Abyssos )
Thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một vì sao từ trời rơi xuống đất, và được trao cho chìa khóa vực thẳm. (Abyssos )
Kane oyawo burno, iro nowuokie machalo gi ich mach maduongʼ. Iro moa e burno noimo chiengʼ kod boche polo molokore maratengʼ. (Abyssos )
Vì sao này mở vực thẳm ra, liền có khói bốc lên như khói lò lửa lớn, mặt trời và không gian bị tối tăm vì luồng khói ấy. (Abyssos )
Ruodhgi motelo nigi en malaika mar bur matut maonge gikone ma nyinge miluongego gi dho jo-Hibrania en Abadon, to gi dho jo-Yunani en Apoluon (tiende ni Ngʼat maketho gik moko). (Abyssos )
Vua của chúng là thiên sứ của vực thẳm, có tên A-ba-đôn theo tiếng Hê-bơ-rơ và A-bô-ly-ôn theo tiếng Hy Lạp. (Abyssos )
Kendo nokwongʼore gi nying Jal mangima nyaka chiengʼ, Jal mane ochweyo polo gik moko duto manie iye, gi piny gi gik moko duto manie iye, kod nam gi gik moko duto manie iye kowacho niya, “Deko moro ok nochak obedie ngangʼ!” (aiōn )
Thiên sứ thề trước Đấng hằng sống đời đời, Đấng sáng tạo trời cùng mọi vật trên trời, đất cùng mọi vật dưới đất, biển cùng mọi vật trong biển rằng: “Sắp hết thời hạn rồi! (aiōn )
To ka gisetieko hulo wechegi, ondiek mawuok e bur matut maonge gikone noked kodgi, mi nologi kendo negogi. (Abyssos )
Khi họ đã hoàn tất lời chứng, con thú từ vực thẳm lên sẽ giao tranh với họ, chiến thắng và giết họ đi. (Abyssos )
Eka malaika mar abiriyo nogoyo turumbetene, to dwonde moko nokok matek ei polo, kagiwacho niya, “Pinyruodhi mar pinyni koro osedoko pinyruodhi mar Ruodhwa kendo mar Kristo, kendo enolochi nyaka chiengʼ.” (aiōn )
Thiên sứ thứ bảy thổi kèn, liền có tiếng nói vang dội từ trời: “Cả thế giới từ nay thuộc Vương Quốc của Chúa chúng ta và Đấng Cứu Thế của Ngài, Ngài sẽ cai trị mãi mãi.” (aiōn )
Eka ne aneno malaika machielo ka huyo e kor polo. Ne en gi Injili mochwere mane olando ne ji duto modak e piny, nolando wachno ne pinje duto, gi dhoudi duto kod dhok duto gi ogendini duto. (aiōnios )
Tôi thấy một thiên sứ khác bay trên không trung, đem Phúc Âm vĩnh cửu công bố cho cư dân trên đất, cho mọi quốc gia, dòng giống, ngôn ngữ, và dân tộc. (aiōnios )
To iro mar mach mar sandgino dhi malo nyaka chiengʼ. Jogo malamo ondiek malich kod gima ket kode, kata jogo mondik negi kido mar nyinge, ok noyud yweyo odiechiengʼ kata otieno.” (aiōn )
Khói lửa bốc lên nghi ngút vô tận. Những người thờ lạy con thú và tượng nó cùng những ai mang dấu hiệu con thú, ngày đêm chịu khổ hình không ngớt.” (aiōn )
Achiel kuom gik mangima angʼwen ka ne omiyo malaike abiriyogo tewni abiriyo mag dhahabu mopongʼ gi mirimb Nyasaye mosiko nyaka chiengʼ. (aiōn )
Một trong bốn sinh vật trao cho bảy thiên sứ bảy bát vàng đựng hình phạt của Đức Chúa Trời, là Đấng Hằng Sống đời đời. (aiōn )
Ondiek malich mane inenono, yande nitie, to tinde oonge kendo obiro wuok oa e bur matut maonge gikone ka odhiyo e kar kethruokne. Ji duto modak e piny, ma nyingegi ok ondiki e kitap ngima nyaka aa chakruok mar piny nowuor ka gineno ondiek malichno, nikech yande entie to tinde oonge, to nochak oduogi kendo. (Abyssos )
Con thú ông thấy xuất hiện trước đây bây giờ không còn nữa. Nhưng nó sẽ từ vực thẳm lên, để đi vào chốn hủy diệt vĩnh viễn. Những người trên thế gian không được ghi tên trong Sách Sự Sống từ khi sáng tạo trời đất, lúc nhìn thấy con thú đều kinh ngạc, vì nó đã mất rồi mà nay xuất hiện trở lại. (Abyssos )
Eka negigoyo koko kendo niya, “Haleluya! Iro moa kuome kowangʼ nodum mochwere manyaka chiengʼ.” (aiōn )
Họ lại reo lên: “Ngợi tôn Chúa Hằng Hữu! Khói thiêu đốt nó bốc lên mãi mãi vô tận!” (aiōn )
To ne omak ondiek malichno kaachiel gi janabi mar miriambo, mane osetimo timbe honni e nyinge. Honnigo ema ne osewuondogo joma ne oketnegi kido mar ondiek malichno kendo negilamo gima ket kode. Ondiek malichno gi Janabi mar miriambo ne owiti kangima e ataro mar mach maliel mager. (Limnē Pyr )
Nhưng con thú bị bắt cùng với tiên tri giả, là kẻ đã thực hiện nhiều phép lạ trước mặt con thú, để lừa gạt những người mang dấu hiệu con thú và thờ lạy tượng nó. Cả hai đều bị bỏ sống vào hồ lửa và diêm sinh đang bốc cháy. (Limnē Pyr )
Eka naneno malaika kalor koa e polo, kotingʼo rayaw mar bur matut maonge gikone kod nyororo maduongʼ e lwete. (Abyssos )
Tôi thấy một thiên sứ từ trời xuống, tay cầm chìa khóa của vực thẳm và một dây xiềng lớn. (Abyssos )
Ne owite e Bur Matut Maonge gikone, kendo nolorone modinone e iye, mondo kik ochak owuond ogendini mag pinje ngangʼ nyaka higni alufu achielgo rum. To bangʼe nogonye mondo obed thuolo kuom kinde matin. (Abyssos )
quăng nó vào vực thẳm, khóa chặt và niêm phong. Suốt một nghìn năm, nó không còn lừa gạt các dân được nữa. Sau đó, nó lại được thả ra ít lâu. (Abyssos )
To Jachien, mane owuondogi ne owit e ataro mar mach maliel mager, kama ondiek malichno kod janabi mar miriambo nowitie. Kanyo gini sandre odiechiengʼ gi otieno nyaka chiengʼ. (aiōn , Limnē Pyr )
Còn quỷ vương đã lừa gạt chúng bị quăng vào hồ lửa diêm sinh, là nơi con thú và tiên tri giả cũng bị cầm tù. Chúng bị đau đớn ngày đêm, mãi mãi vô tận. (aiōn , Limnē Pyr )
Nam nogolo joma otho manie iye, to Tho gi Piny Joma otho nogolo joma otho manie igi, kendo ngʼato ka ngʼato nongʼadne bura koluwore kod gik mane osetimo. (Hadēs )
Biển trao trả các thi hài nằm trong lòng biển. Tử vong và âm phủ cũng giao nộp người chết chúng giam cầm. Mỗi người bị xét xử tùy theo công việc mình đã làm. (Hadēs )
Eka tho gi Piny Joma otho nowiti e ataro mar mach. Ataro mar mach en e tho mar ariyo. (Hadēs , Limnē Pyr )
Tử vong và âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Vào hồ lửa là chết lần thứ hai. (Hadēs , Limnē Pyr )
Ngʼato angʼata ma nyinge ne ok onwangʼ kondiki e kitap ngima, nowit e ataro mar mach. (Limnē Pyr )
Người nào không có tên trong Sách Sự Sống phải bị quăng xuống hồ lửa. (Limnē Pyr )
To joma luor, gi joma ok oyie kod jo-koko gi jonek kod joma terore, gi jojuogi gi joma lamo nyiseche manono kod jo-miriambo duto, kargi nobed mana ataro mar mach maliel mager, ma en tho mar ariyo!” (Limnē Pyr )
Còn những người hèn nhát, vô tín, hư hỏng, sát nhân, gian dâm, tà thuật, thờ thần tượng, và dối trá, đều phải vào hồ lửa diêm sinh. Đó là chết lần thứ hai.” (Limnē Pyr )
Otieno ok nobedie kendo ngangʼ bende ok ginidwar ler mar taya kata ler mar chiengʼ, nikech Ruoth Nyasaye ema nomigi ler. To ginibed gi loch nyaka chiengʼ. (aiōn )
Tại đó sẽ không có ban đêm cũng không cần ánh đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ chiếu sáng họ. Họ sẽ cai trị đời đời. (aiōn )
Jogi gin sokni maonge pi kendo gichalo gi ongʼwengʼo ma yamo tero. Gima okan nigi mudho mandiwa molil ti. ()