< ⲚⲒⳈⲈⲂⲢⲈⲞⲤ 8 >

1 ⲁ̅ ⲡⲕⲉⲫⲁⲗⲁⲓⲟⲛ ⲇⲉ ⲡⲉ ⲛⲛⲉⲧⲛϫⲱ ⲙⲙⲟⲟⲩ ⲟⲩⲛⲧⲁⲛ ⲙⲙⲁⲩ ⲛⲟⲩⲁⲣⲭⲓⲉⲣⲉⲩⲥ ⲛⲧⲉⲓ ⲙⲓⲛⲉ ⲡⲁⲓ ⲉⲛⲧⲁϥϩⲙⲟⲟⲥ ϩⲓ ⲧⲟⲩⲛⲁⲙ ⲙⲡⲉⲑⲣⲟⲛⲟⲥ ⲛⲧⲙⲛⲧⲛⲟϭ ϩⲛ ⲙⲡⲏⲩⲉ
Ðại ý điều chúng ta mới nói đó, là chúng ta có một thầy tế lễ thượng phẩm, ngồi bên hữu ngai của Ðấng tôn nghiêm trong các từng trời,
2 ⲃ̅ ⲡⲗⲓⲧⲟⲩⲣⲅⲟⲥ ⲛⲛⲉⲧⲟⲩⲁⲁⲃ ⲙⲛ ⲧⲉⲥⲕⲏⲛⲏ ⲙⲙⲉ ⲧⲉⲛⲧⲁ ⲡϫⲟⲉⲓⲥ ⲡⲏⲥⲥⲉ ⲙⲙⲟⲥ ⲛⲣⲱⲙⲉ ⲁⲛ
làm chức việc nơi thánh và đền tạm thật, bởi Chúa dựng lên, không phải bởi một người nào.
3 ⲅ̅ ⲁⲣⲭⲓⲉⲣⲉⲩⲥ ⲅⲁⲣ ⲛⲓⲙ ⲉϣⲁⲩⲕⲁⲑⲓⲥⲧⲁ ⲙⲙⲟϥ ⲉⲧⲁⲗⲉ ⲇⲱⲣⲟⲛ ⲉϩⲣⲁⲓ ϩⲓ ⲑⲩⲥⲓⲁ ⲉⲩⲁⲛⲁⲅⲕⲏ ⲧⲉ ⲉⲡⲁⲓ ⲉⲕⲱ ⲛⲁϥ ⲙⲡⲉⲧϥⲛⲁⲧⲁⲗⲟϥ ⲉϩⲣⲁⲓ
Phàm thầy tế lễ thượng phẩm đã được lập lên là để dâng lễ vật và hi sinh; vậy thì Ðấng nầy cũng cần phải dâng vật gì.
4 ⲇ̅ ⲉⲛⲉϥϣⲟⲟⲡ ⲇⲉ ϩⲓϫⲙ ⲡⲕⲁϩ ⲡⲉ ⲛⲉϥⲛⲁϣⲱⲡⲉ ⲁⲛ ⲛⲟⲩⲏⲏⲃ ⲡⲉ ⲉⲩϣⲟⲟⲡ ⲛϭⲓ ⲛⲉⲧⲧⲁⲗⲟ ⲛⲛⲇⲱⲣⲟⲛ ⲉϩⲣⲁⲓ ⲕⲁⲧⲁ ⲡⲛⲟⲙⲟⲥ
Nếu Ngài còn ở thế gian, thì Ngài chẳng phải là thầy tế lễ, vì ở thế gian có những thầy tế lễ dâng lễ vật theo luật pháp dạy,
5 ⲉ̅ ⲛⲁⲓ ⲉⲧϣⲙϣⲉ ϩⲛ ⲟⲩⲥⲙⲟⲧ ⲙⲛ ⲟⲩϩⲁⲓⲃⲉⲥ ⲛⲧⲉ ⲛⲁⲧⲡⲉ ⲕⲁⲧⲁ ⲑⲉ ⲉⲛⲧⲁⲩϣⲁϫⲉ ⲙⲛ ⲙⲱⲩⲥⲏⲥ ⲉϥⲛⲁϫⲱⲕ ⲉⲃⲟⲗ ⲛⲧⲉⲥⲕⲏⲛⲏ ϭⲱϣⲧ ⲅⲁⲣ ⲡⲉϫⲁϥ ⲉⲕⲉⲧⲁⲙⲓⲟ ⲛⲛⲕⲁ ⲛⲓⲙ ⲕⲁⲧⲁ ⲡⲧⲩⲡⲟⲥ ⲉⲛⲧⲁⲩⲧⲟⲩⲟⲕ ⲉⲣⲟϥ ϩⲣⲁⲓ ϩⲙ ⲡⲧⲟⲟⲩ
và giữ sự thờ phượng, sự thờ phượng đó chẳng qua là hình và bóng của những sự trên trời mà thôi, cũng như khi Môi-se gần dựng đền tạm, thì Ðức Chúa Trời phán bảo rằng: Hãy cẩn thận, làm mọi việc theo như kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi tại trên núi.
6 ⲋ̅ ⲧⲉⲛⲟⲩ ⲇⲉ ⲁϥϫⲓ ⲛϩⲉⲛϣⲙϣⲉ ⲉⲩϣⲟⲃⲉ ⲛⲑⲉ ⲟⲛ ⲉⲡⲙⲉⲥⲓⲧⲏⲥ ⲡⲉ ⲛⲧⲇⲓⲁⲑⲏⲕⲏ ⲉⲧⲥⲟⲧⲡ ⲧⲁⲓ ⲉⲛⲧⲁⲩⲥⲙⲛⲧⲥ ⲉϫⲛ ϩⲉⲛⲉⲣⲏⲧ ⲉⲩⲥⲟⲧⲡ
Nhưng thầy tế lễ thượng phẩm chúng ta đã được một chức vụ rất tôn trọng hơn, vì Ngài là Ðấng trung bảo của giao ước tốt hơn, mà giao ước ấy lập lên trên lời hứa tốt hơn.
7 ⲍ̅ ⲉⲛⲉⲣⲉ ϯϣⲟⲣⲡ ⲅⲁⲣ ϣⲟⲟⲡ ⲁϫⲛ ⲁⲣⲓⲕⲉ ⲛⲉϥⲛⲁϣⲓⲛⲉ ⲁⲛ ⲡⲉ ⲛⲥⲁ ⲡⲙⲁ ⲛⲧⲙⲉϩⲥⲛⲧⲉ
Vì nếu ước thứ nhứt không thiếu gì, thì chẳng có chỗ nào lập ước thứ hai.
8 ⲏ̅ ⲉϥϭⲛⲁⲣⲓⲕⲉ ⲅⲁⲣ ⲉⲣⲟⲟⲩ ϣⲁϥϫⲟⲟⲥ ϫⲉ ⲉⲓⲥ ϩⲏⲏⲧⲉ ⲟⲩⲛ ϩⲉⲛϩⲟⲟⲩ ⲛⲏⲩ ⲡⲉϫⲉ ⲡϫⲟⲉⲓⲥ ⲧⲁϫⲱⲕ ⲉⲃⲟⲗ ⲉϫⲙ ⲡⲏⲉⲓ ⲙⲡⲓⲥⲣⲁⲏⲗ ⲙⲛ ⲡⲏⲓ ⲛⲓⲟⲩⲇⲁ ⲛⲟⲩⲇⲓⲁⲑⲏⲕⲏ ⲛⲃⲣⲣⲉ
Vả, trong những lời nầy thật có ý trách, là lời Ðức Chúa Trời phán cùng dân Giu-đa rằng: Chúa phán: kìa, nhựt kỳ đến, Khi đó ta sẽ cùng nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa lập một ước mới,
9 ⲑ̅ ⲉⲛⲕⲁⲧⲁ ⲧⲇⲓⲁⲑⲏⲕⲏ ⲁⲛ ⲉⲛⲧⲁⲓⲁⲁⲥ ⲙⲛ ⲛⲉⲩⲉⲓⲟⲧⲉ ⲛⲛⲉϩⲟⲟⲩ ⲉⲛⲧⲁⲓⲁⲙⲁϩⲧⲉ ⲛⲧⲉⲩϭ ⲓϫ ⲉⲛⲧⲟⲩ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲙ ⲡⲕⲁϩ ⲛⲕⲏⲙⲉ ϫⲉ ⲛⲧⲟⲟⲩ ⲙⲡⲟⲩϭⲱ ϩⲛ ⲧⲁⲇⲓⲁⲑⲏⲕⲏ ⲁⲛⲟⲕ ϩⲱ ⲁⲓⲁⲙⲉⲗⲉⲓ ⲉⲣⲟⲟⲩ ⲡⲉϫⲉ ⲡϫⲟⲉⲓⲥ
Không phải như ước ta đã lập với tổ tiên chúng nó, Trong ngày ta cầm tay họ dẫn ra khỏi xứ Ê-díp-tô. Vì họ không bền giữ lời ước ta, Nên ta không đoái xem họ, ấy là lời Chúa phán.
10 ⲓ̅ ϫⲉ ⲧⲁⲓ ⲧⲉ ⲧⲇⲓⲁⲑⲏⲕⲏ ⲉϯⲛⲁⲥⲙⲛⲧⲥ ⲙⲛ ⲡⲏⲉⲓ ⲙⲡⲓⲥⲣⲁⲏⲗ ⲙⲛⲛⲥⲁ ⲛⲉϩⲟⲟⲩ ⲉⲧⲙⲙⲁⲩ ⲡⲉϫⲉ ⲡϫⲟⲉⲓⲥ ⲉⲓⲉϯ ⲛⲁⲛⲟⲙⲟⲥ ⲉϫⲛ ⲛⲁⲩⲙⲉⲉⲩⲉ ⲁⲩⲱ ϯⲛⲁⲥϩⲁⲓⲥⲟⲩ ⲉϫⲛ ⲛⲉⲩϩⲏⲧ ⲧⲁϣⲱⲡⲉ ⲛⲁⲩ ⲛⲛⲟⲩⲧⲉ ⲛⲥⲉϣⲱⲡⲉ ⲛⲁⲓ ⲉⲩⲗⲁⲟⲥ
Chúa lại phán: Nầy là lời ước mà ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên Sau những ngày đó: Ta sẽ để luật pháp ta trong trí họ Và ghi tạc vào lòng; Ta sẽ làm Ðức Chúa Trời họ, Họ sẽ làm dân ta.
11 ⲓ̅ⲁ̅ ⲛⲧⲉⲧⲙ ⲡⲟⲩⲁ ⲡⲟⲩⲁ ϯ ⲥⲃⲱ ⲙⲡⲉϥⲣⲙⲛϯ ⲙⲉ ⲁⲩⲱ ⲡⲟⲩⲁ ⲡⲟⲩⲁ ⲙⲡⲉϥⲥⲟⲛ ⲉϥϫⲱ ⲙⲙⲟⲥ ϫⲉ ⲥⲟⲩⲛ ⲡϫⲟⲉⲓⲥ ϫⲉ ⲥⲉⲛⲁⲥⲟⲩⲱⲛⲧ ⲧⲏⲣⲟⲩ ϫⲓⲛ ⲡⲉⲩⲕⲟⲩⲓ ϣⲁ ⲡⲉⲩⲛⲟϭ
Trong vòng họ sẽ chẳng có ai dạy bảo công dân mình Và anh em mình, rằng: Hãy nhìn biết Chúa; Vì hết thảy trong vòng họ, Từ kẻ rất nhỏ cho đến kẻ rất lớn đều sẽ biết ta,
12 ⲓ̅ⲃ̅ ϫⲉ ϯⲛⲁⲕⲱ ⲉⲃⲟⲗ ⲛⲛⲉⲩϫⲓ ⲛϭⲟⲛⲥ ⲧⲁⲧⲙⲣⲡⲙⲉⲉⲩⲉ ⲛⲛⲉⲩⲛⲟⲃⲉ ϫⲓⲛ ⲧⲉⲛⲟⲩ
Nhơn ta sẽ tha sự gian ác của họ, Và không nhớ đến tội lỗi họ nữa.
13 ⲓ̅ⲅ̅ ϩⲙ ⲡⲧⲣⲉϥϫⲟⲟⲥ ϫⲉ ⲟⲩⲃⲣⲣⲉ ⲁϥⲣⲧϣⲟⲣⲡ ⲛⲁⲥ ⲡⲉⲛⲧϥⲣⲁⲥ ⲇⲉ ⲁⲩⲱ ⲁϥⲣϩⲗⲗⲟ ϥϩⲏⲛ ⲉϩⲟⲩⲛ ⲉⲡⲧⲁⲕⲟ
Gọi ước đó là ước mới, thì đã xưng ước trước là cũ; vả, điều chi đã cũ đã già, thì gần tiêu mất đi.

< ⲚⲒⳈⲈⲂⲢⲈⲞⲤ 8 >