< 约伯记 21 >
“Xin lắng nghe những gì tôi nói. Đó là cách các anh an ủi tôi.
3 请宽容我,我又要说话; 说了以后,任凭你们嗤笑吧!
Xin nhẫn nại, để nghe tôi thổ lộ. Chờ tôi nói xong rồi các anh cứ chê cười.
Thật ra, tôi đâu có phiền trách loài người. Tâm trí tôi thật là bấn loạn!
Xin các anh quay mặt nhìn tôi. Các anh sẽ sững sờ, lấy tay che miệng.
Chính tôi cũng sợ hãi khi nhìn bản thân. Toàn thân phải run lên cầm cập.
Tại sao bọn gian ác sống lâu, càng về già càng quyền thế?
Chính mắt chúng được chứng kiến rõ ràng, con cháu đông đúc và cường thịnh.
9 他们的家宅平安无惧; 神的杖也不加在他们身上。
Nhà cửa chúng an ninh, không có gì phải sợ, và Đức Chúa Trời cũng không trừng phạt chúng.
10 他们的公牛孳生而不断绝; 母牛下犊而不掉胎。
Bò đực chúng tăng gia, không mất mát. Bò cái cũng sinh sôi, không sẩy.
11 他们打发小孩子出去,多如羊群; 他们的儿女踊跃跳舞。
Chúng đưa đàn con ra như bầy chiên. Con cái chúng mặc sức nô đùa nhảy múa.
Chúng ca hát theo tiếng trống và tiếng đàn hạc. Reo hò theo ống tiêu, ống sáo.
13 他们度日诸事亨通, 转眼下入阴间。 (Sheol )
Chúng sống những ngày giàu sang thịnh vượng, rồi yên lành đi vào âm phủ. (Sheol )
14 他们对 神说:离开我们吧! 我们不愿晓得你的道。
Chúng dám nói với Đức Chúa Trời: ‘Xin hãy lìa xa. Chúng tôi chẳng muốn học biết đường lối Chúa!
15 全能者是谁,我们何必事奉他呢? 求告他有什么益处呢?
Đấng Toàn Năng là ai mà chúng tôi phải vâng phục? Cầu nguyện cùng Chúa có ích lợi gì đâu?’
16 看哪,他们亨通不在乎自己; 恶人所谋定的离我好远。
(Chúng nghĩ sự hưng thịnh đang nằm trong tay chúng, nhưng tôi sẽ tránh xa âm mưu kẻ ác).
17 恶人的灯何尝熄灭? 患难何尝临到他们呢? 神何尝发怒,向他们分散灾祸呢?
Dường như ánh sáng của kẻ ác chưa bao giờ tắt. Có bao giờ chúng gặp tai ương đâu? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời vẫn chưa nổi giận hình phạt chúng?
18 他们何尝像风前的碎秸, 如暴风刮去的糠秕呢?
Chúng chẳng bị cuốn theo chiều gió như rơm rác sao? Hay chẳng như tro trấu bị bão đùa đi tan tác?
19 你们说: 神为恶人的儿女积蓄罪孽; 我说:不如本人受报,好使他亲自知道。
Các anh bảo: ‘Đức Chúa Trời sẽ phạt con cái chúng về sau?’ Nhưng tôi nói Ngài sẽ phạt chính người có tội, để chúng hiểu sự phán xét của Ngài.
20 愿他亲眼看见自己败亡, 亲自饮全能者的忿怒。
Xin cho chúng chứng kiến cảnh diệt vong. Xin để chúng uống chén thịnh nộ của Đấng Toàn Năng.
Vì một khi đã xuôi tay nhắm mắt, nó không còn hưởng được lạc thú gia đình.
Nhưng ai dám lên mặt dạy khôn Đức Chúa Trời, từ khi Ngài đoán xét kẻ tự tôn tự đại.
Có người chết khi đang sung sức, lúc thoải mái và thanh nhàn,
lúc thân thể còn tráng kiện, và tủy xương đang hồi cực thịnh.
Người khác lại qua đời trong đắng cay, chưa bao giờ tận hưởng đời sống tốt lành.
Lòng đất lạnh cả hai cùng nằm xuống, bị bọ giòi bao phủ như nhau.
Này, tôi biết rõ các anh đang nghĩ gì. Tôi biết cạm bẫy các anh định gài tôi.
28 你们说:霸者的房屋在哪里? 恶人住过的帐棚在哪里?
Các anh bảo tôi bọn cường hào ác bá, đều bị họa cửa nhà tan nát vì tội của chúng.
29 你们岂没有询问过路的人吗? 不知道他们所引的证据吗?
Nhưng sao không hỏi những người chung quanh, họ sẽ cho các anh biết sự thật.
30 就是恶人在祸患的日子得存留, 在发怒的日子得逃脱。
Kẻ ác thường được tai qua nạn khỏi và nó vẫn an nhiên thoát khỏi diệt vong.
31 他所行的,有谁当面给他说明? 他所做的,有谁报应他呢?
Chẳng ai đem việc ác nó ra nguyền rủa hay báo trả những tội ác nó gây ra.
Khi chết, nó được an táng linh đình, nghĩa địa nó có người canh gác.
33 他要以谷中的土块为甘甜; 在他以先去的无数, 在他以后去的更多。
Kẻ ác vẫn được mồ yên mả đẹp. Mọi người kéo nhau đưa đám tang, người trước người sau nhiều vô kể.
34 你们对答的话中既都错谬, 怎么徒然安慰我呢?
Vậy, sao các anh còn phí công an ủi tôi? Những giải thích của các anh chỉ là giả dối.”