< La Bu 44 >
1 O Elohim Pathen, phat sottah masanga kapu kapateo khanglai a nanatoh nathil bolho eina seipeh u chu keiho tah in kanakol un kanajaove:
Hỡi Ðức Chúa Trời, lỗ tôi chúng tôi có nghe, Tổ phụ chúng tôi đã thuật lại Công việc Chúa đã làm trong đời họ, Buổi ngày xưa.
2 Nangin nangma helou namtin vaipi ho naban thahat in nana deljam in agam leiset uchu kapu kapateo nanapen ahi. Nangin agalmiteo nana suhlhuh peh in kapu kapateo chu nana chamlhat sah in ahi.
Chúa dùng tay mình đuổi các dân tộc ra, song lại tài bồi tổ phụ chúng tôi; Chúa làm khổ cho các dân; nhưng lại làm cho tổ phụ chúng tôi lan ra.
3 Amahon achemjam uva gal anajouva gam analah u ahipoi; aban thahat uva jong gal anajou ahipoi. Amavang nangma ban thahat leh namaivah chun gal nana jopeh ahibouve ajeh chu nangin amaho chu nana ngailun ahi.
Vì họ chẳng nhờ thanh gươm mình mà được xứ, Cũng chẳng nhờ cánh tay mình mà được cứu; Bèn nhờ tay hữu Chúa, cánh tay Chúa, và sự sáng mặt Chúa, Vì Chúa làm ơn cho họ.
4 Nangma kalengpa le Elohim ka Pathen nahin nangin Israel te dingin gal nana jo peh tai.
Hỡi Ðức Chúa Trời, Chúa và vua tôi; Cầu Chúa ban lịnh giải cứu Gia-cốp.
5 Nangma thahatna jal a bou kagal miteo kanungno jouvu ahin naming a bou keihon eidouhou kachotphao ahibouve.
Nhờ Chúa, chúng tôi sẽ xô đổ cừu địch chúng tôi; Nhơn danh Chúa, chúng tôi giày đạp những kẻ dấy nghịch cùng chúng tôi.
6 Keiman kathalpi kasongpoi, kachemjamin eihuhdoh dingjong kakinempoi.
Vì tôi chẳng nhờ cậy cung tôi, Thanh gươm tôi cũng sẽ chẳng cứu tôi đâu;
7 Nangma bouvin kagalmi teo chunga galjona neipeh u ahibouve, hitihin nangin eihotbol teo chu jumna napejin ahi.
Nhưng Chúa đã cứu chúng tôi khỏi cừu địch chúng tôi, Làm bỉ mặt những kẻ ghen ghét chúng tôi.
8 O Elohim Pathen naloupina ho hi tantih neilou va ka samphon jing diu, chule a kumkho a ka thangvah jing diu ahi.
Hằng ngày chúng tôi đã khoe mình về Ðức Chúa Trời, Lại sẽ cảm tạ danh Chúa đến đời đời.
9 Ahinla tunvang nangin jumthetna neipaidoh u ahitai. Nangin ka sepia hou jengjong neilamkai peh tapouve.
Song nay Chúa đã từ bỏ chúng tôi, làm cho chúng tôi bị nhuốc nhơ, Chúa chẳng còn đi ra cùng đạo binh chúng tôi nữa.
10 Nangin kagalmi teu va kon in neinung jamsah un chuleh eidou houchu kagamsung u nalosah tai.
Chúa khiến chúng tôi lui lại trước mặt cừu địch, Và kẻ ghét chúng tôi cướp lấy của cho mình.
11 Nangin kelngoiho bangin eikisat chen chen sah gamtaovin chitin vaipi lah a neithe thang gamtaove.
Chúa đã phó chúng tôi khác nào chiên bị định làm đồ ăn, Và đã làm tan lạc chúng tôi trong các nước.
12 Nangin nasahlut namitehi manbai tah in najohdoh in man neilouhel toh nabah sahtai.
Chúa đã bán dân sự Chúa không giá chi, Và đáng giá chúng nó chẳng cao.
13 Nangin kaheng kakomhou noise neichansah taovin kavelluva mite taitom le houset dingbep in neikoitaove.
Chúa làm chúng tôi thành vật ô nhục cho kẻ lân cận chúng tôi, Làm đồ nhạo báng và một sự chê cười cho những kẻ ở xung quanh.
14 Nangin amaho totthang hoina bepseo neihisah taovin isahlou tah in alu eihih khum taovin ahi.
Chúa làm chúng tôi nên tục ngữ giữa các nước, Trong các dân, ai thấy chúng tôi bèn lắc đầu.
15 Ki taitom jingna a konhin kakile doh jouta pouvin kamai uva jumleh jachat mel kapu den taove.
Cả ngày sự sỉ nhục ở trước mặt tôi, Sự hổ ngươi bao phủ mặt tôi,
16 Kajah uhi eitaitomteo housetna thucheng ngen ahin, kamit uva kamu houhi ahileh kachunguva phula nom dougal mite ngen ahiuve.
Tại vì tiếng sỉ nhục mắng chưởi, Và vì cớ kẻ thù nghịch và kẻ báo thù.
17 Hichenghi kathoh jeng vangun keihon nangma kasumil deh pouvin ahi. Kitepna thuchengho jong kasukeh deh pouve.
Mọi đều ấy đã xảy đến cho chúng tôi; song chúng tôi nào quên Chúa. Cũng không bội nghịch giao ước của Chúa.
18 Kalung thim un nangma kanuse deh pouvin nalampia konin jong kajam mangdeh pouve.
Lòng chúng tôi không thối lại, Bước chúng tôi cũng không trở khỏi lối Chúa.
19 Hinlah nangin sial chenna neldi gam anei suchipden taove, nangin thina le muthim neikhu khum taove.
Dầu vậy, Chúa đã bẻ nát chúng tôi trong chỗ chó rừng, Bao phủ chúng tôi bằng bóng sự chết.
20 I jemtia keihon Elohim ka Pathen u min kasuh mil uva ahilouleh gamdang semthu pathen houna a kakhut u kalhandoh khah uva ahileh,
Nếu chúng tôi có quên danh Ðức Chúa Trời chúng tôi, Hoặc giơ tay mình hướng về một thần lạ,
21 Elohim Pathen in ahet teiding ahi ajeh chu Aman mihem lungthim a thuguh jouse ahet ahi.
Ðức Chúa Trời há sẽ chẳng hỏi tra sao? Vì Ngài biết thấy sự bí mật của lòng.
22 Ahin, nangma jal in niseh in eiki thatnun; kelngoi bangin eiki that taove.
Thật vì Chúa mà hằng ngày chúng tôi bị giết, Chúng tôi bị kể như con chiên dành cho lò cạo.
23 O Yahweh Pakai hung thoudoh in ibol a na imut ham? Hung thoudoh in! neipaidoh pai pai hihbeh un.
Hỡi Chúa, hãy tỉnh thức! Nhơn sao Chúa ngủ? Hãy chổi dậy, chớ từ bỏ chúng tôi luôn luôn.
24 Ipidinga namai naheimang ham? Kathohgim naoleh eibolset naohi nanahsah lou hitam?
Cớ sao Chúa giấu mặt đi, Quên nỗi hoạn nạn và sự hà hiếp chúng tôi?
25 Keiho leivui lah a kalhumat gam taove, bonlhoh lah a akhupbon kakijam taove.
Vì linh hồn chúng tôi bị phục dưới bụi tro; Thân thể chúng tôi dính vào đất.
26 Hung kipatdoh inlang! Neikithopiuvin! Nami ngailutna longlou chun neihung lhatdoh taovin.
Xin Chúa hãy chổi dậy mà giúp đỡ chúng ta, Hãy vì sự nhơn từ Chúa mà chuộc chúng tôi.