< La Bu 141 >

1 O Pakai, nangma kakouve, Panpi ngehna katao hi nei ngaipeh loijin!
Hỡi Ðức Giê-hô-va, tôi đã cầu khẩn Ngài, xin mau mau đến cùng tôi. Khi tôi kêu cầu Ngài, xin hãy lắng tai nghe tiếng tôi.
2 Kataona hi nahenga gimnamtwi kilhut bang’in chule kakhut teni kadopsang hi nilhah lang kilhaina gantha bang’in neisanpeh tan.
Nguyện lời cầu nguyện tôi thấu đến trước mặt Chúa như hương, Nguyện sự giơ tay tôi lên được giống như của lễ buổi chiều!
3 O Pakai, kakam’a hin kamdal neikoipeh’in. Kakam sung nei vetpeh jing in.
Hỡi Ðức Giê-hô-va, xin hãy giữ miệng tôi, Và canh cửa môi tôi.
4 Thilse bolna din kalungthim aselam-a kon’in neihoidah sah in, thil dihlou bolna’a neipansah hih’in. Thildihlou bol hon aphat chompiu thangset umtah thil hoa chan nei neisah hih’in.
Xin chớ để lòng tôi hướng về điều gì xấu xa, Ðặng làm việc ác với kẻ làm ác; Nguyện tôi không ăn vật ngon của chúng nó.
5 Miphan eiphoh hen hichu ngailutna joh ahi! Amahon eisuhdihna chu damna ahipoi, Miphalou hon thilse abol dounan katao jinge.
Nguyện người công bình đánh tôi, ấy là ơn; Nguyện người sửa dạy tôi, ấy khác nào dầu trên đầu, Ðầu tôi sẽ không từ chối. Vì dẫu trong khi chúng nó làm ác, tôi sẽ cứ cầu nguyện.
6 Alamkaiteu kol’a akisot lhah tengleh, miphalou hon kathusei angaidiu chuteng dih ahinsah diu ahi.
Các quan xét chúng nó bị ném xuống bên hòn đá; Họ sẽ nghe lời tôi, vì lời tôi êm dịu.
7 Songpi akikhet keh teng tol’a akitakeh bang in, miphalou ho gule chang ho jong vui louva kithe jal ding ahi. (Sheol h7585)
Hài cốt chúng tôi bị rải rác nơi cửa âm phủ, Khác nào khi người ta cày ruộng và tách đất ra. (Sheol h7585)
8 O Pakai hatchungnung, panpi ngaijin na henga kataove. Nangma kakiselna kulpi nahi; amaho khut-a thina netosah hih in.
Chúa Giê-hô-va ôi! mắt tôi ngưỡng vọng Chúa, Tôi nương náu mình nơi Chúa; Xin chớ lìa bỏ linh hồn tôi.
9 Kei ona dinga thang akam-uva kon in neihuhdoh in, thilpha lou jenga chon ho thangkol’a nei o-sah hih in.
Cầu Chúa giữ tôi khỏi bẫy chúng nó đã gài tôi, Và khỏi vòng kẻ làm ác.
10 Miphalou ho chu amaho thang kam-a chun oh uhen, kijam chap tauhen; keivang nei hoidoh sah’in.
Nguyện kẻ ác bị sa vào chánh lưới nó, Còn tôi thì được thoát khỏi.

< La Bu 141 >