< Ezekiel 20 >

1 Lengpa Jehoiachin sohchan kal kum sagi lhin kum August 14 nin, Israel lamkai ho phabep Pakaija kon thuseidoh nomin ahung uve. Amaho chu kamasanga atouvun adonbutna angah uve.
Năm thứ bảy, ngày mồng mười tháng năm, có một vài trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến đặng cầu hỏi Đức Giê-hô-va, họ ngồi trước mặt ta.
2 Hichun Pakaija konin hiche thuhi kahenga ahung lhunge.
Bấy giờ, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
3 “Mihem chapa, hichehi thaneitah Pakai thusei ahi. ‘Nanghon iti dana keima thu neidoh ngammjeng uham? Keima kahing jinge tin thaneitah Pakaiyin aseije. Keiman nangho ima seipeh pouvinge’ tin Israel lamkai ho seipeh tan.
Hỡi con người, hãy nói cùng các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, bảo chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Có phải các ngươi đến đặng cầu hỏi ta chăng? Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta không để cho các ngươi cầu hỏi.
4 Mihem chapa, amaho dounan achungchang thu kisutna chu hin podoh in lang amaho chu themmo chan temin. Apu apateu kidah um umtah'a achonset nau khu geldohsah in.
Hỡi con người, ngươi muốn xét đoán chúng nó, ngươi muốn xét đoán chúng nó chăng? Hãy làm cho chúng nó bởi thế những sự gớm ghiếc của tổ phụ mình.
5 Pakaija kon hiche thu kisei hi amaho chu seipeh in. Keiman Israel kana lhen chun Egypt gam'a um Jacob chilhah ho koma keimatah kana kilah in, keima Pakai hi a Pathen u kahi ding ahi tin kitah tah in kihahsel in kana neije.
Vậy ngươi khá nói cùng chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Đang ngày mà ta chọn Y-sơ-ra-ên, mà ta thề cùng dòng dõi nhà Gia-cốp, mà ta tỏ mình cho chúng nó biết ta trong đất Ê-díp-tô, khi ta thề cùng chúng nó, và rằng: Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi;
6 Hiche nikho mama chun keiman kitah tah in kaki hahsel in, keiman amaho chu Egypt gam'a konna kahin puidoh a amaho dinga kamudoh a kahetdoh nag am phapen, khoiju leh bongnoi lonna gam'a kapuilut ding ahi.
ngày đó ta thề hứa cùng chúng nó rằng ta sẽ đem chúng nó ra khỏi đất Ê-díp-tô đặng vào đất mà ta đã tìm sẵn cho chúng nó, tức là đất đượm sữa và mật ong, vinh hiển nhất trong các đất.
7 Hichun keiman amaho koma kaseijin, nangho amichan cheh in nalung sungu lodimset kidah umtah milima kon chun hung potdoh'un. Egypt mite milim doi semthu a chun kisuboh hih un. Ajeh chu keima na Pathen u kahi.
Ta nói cùng chúng nó rằng: Các ngươi ai nấy khá quăng xa mình những sự gớm ghiếc của mắt các ngươi, và chớ làm ô uế mình với các thần tượng của Ê-díp-tô! Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.
8 Ahinlah amaho kei dounan, doumah mah abol'un, kathu angai pouve. Alungsungu lodimset kidah dah um, chonsetna konna ahung kiheidoh uva, ahilouleh Egypt mite doilim semthu ho ahin dalha pouve. Hichun keiman kalung hanna suhbulhit nadinga kalungsatna nachung uva twisun a kasun lhah khum diu ahi tin kagih sal e.
Nhưng mà chúng nó dấy loạn nghịch cùng ta, và không muốn nghe ta; ai nấy không ném bỏ những sự gớm ghiếc của mắt mình, và không lìa bỏ các thần tượng của Ê-díp-tô. Bấy giờ ta nói rằng ta sẽ đổ cơn giận ta trên chúng nó, làm trọn sự giận ta nghịch cùng chúng nó giữa đất Ê-díp-tô.
9 Ahinlah ja umtah kamin huhdoh nadingin kaseisa chu kabol tapoi. Egypt gam'a kipatna Israel te kahin puidoh laiya namtin vaipi keima tah akimvel uva chengho mitmua kana kiphonna min chu jaum leh jachatna aum ding chu kana phal poi.
Nhưng ta đã vì cớ danh ta mà làm, hầu cho danh ấy khỏi bị nói phạm trước mắt các dân ngoại mà chúng nó ở giữa, trước mắt các dân ấy ta đã tỏ mình cho chúng nó biết, khi đem chúng nó ra khỏi đất Ê-díp-tô.
10 Hijeh chun keiman Egypt gam'a kipat in amaho chu gamthip noija kahin puidoh in,
Vậy ta đã làm cho chúng nó ra khỏi đất Ê-díp-tô, và đem chúng nó đến nơi đồng vắng.
11 Hiche munna chun keiman kathupeh leh kachondan ho ahin theina dinguva achinghoi diuvin kanapen,
ta ban cho chúng nó luật lệ ta, và làm cho chúng nó biết mạng lịnh ta, là điều nếu người ta làm theo thì được sống bởi nó.
12 Chule amaho leh keima kikah kiguijop nading kacholngah nikho kanapen ahi. Keima a Pakaiju kahi a chuleh athenga aumdohna ding uva ana chomkhen pa kahi chu ahet jing theina ding uva kana peh ahi.
Ta cũng cho chúng nó những ngày sa bát ta làm một dấu giữa ta và chúng nó, đặng chúng nó biết rằng ta là Đức Giê-hô-va biệt chúng nó ra thánh.
13 Ahivangin Israel miten keidou nan doumah mah abol uvin, chuleh gamthip noija chun kathupeh ho ajui nom pouve. Seingaina chun chenna apeh diu vang chun kachon dan ho juinom deh pouvin te. Kacholngah nikho jong asukeh uve. Hijeh chun kalunsatna sunlhah khum jeng din kana gihsal in, chuleh gamthip laiya chu suhmang hel jeng ding hitam tin kana gonge.
Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên nổi loạn nghịch cùng ta trong đồng vắng. Chúng nó không noi theo lệ luật ta, khinh bỏ mạng lịnh ta, là điều nếu người ta làm theo thì được sống bởi nó, và phạm các ngày sa-bát ta nặng lắm. Bấy giờ ta nói ta sẽ đổ cơn giận ta trên chúng nó trong đồng vắng, đặng diệt hết đi.
14 Ahivangin Israelte Egypt gam'a kipatna kathahatna kahin puidoh anamu namtin vaipiho masanga kamin kijabol huhdoh nadingin, kanung tahdoh kit tai.
Nhưng ta đã vì cớ danh ta mà làm hầu cho danh ấy không bị nói phạm trước mắt các dân ngoại, trước mắt các dân ấy ta đã đem chúng nó ra khỏi.
15 Ahinlah gamthip noija chun amaho dounan kihahselna dihtah kaneijin, keiman peh dinga kagotna khoiju leh bongnoi lonna gamsung leiset chunga gamhoi pen gam'a chu kapuilut louhel diu ahi tia kaki hahsel ahi.
Vả, ta cũng đã thề cùng chúng nó trong đồng vắng rằng ta sẽ không đem chúng nó vào đất mà ta đã định cho chúng nó, là đất đượm sữa và mật ong, vinh hiển nhất trong mọi đất;
16 Ijeh inem itile amahon kachondan ho anotthap un thupeh ho ajui nom pouvin, chuleh ka cholngah niho asukeh uve. Alungthim houvin amilim doi semthu hou bou agellui.
vì chúng nó đã bỏ mạng lịnh ta, không noi theo lệ luật ta, và phạm những ngày sa-bát ta; bởi lòng chúng nó đã hướng về thần tượng mình.
17 Hijeng jongleh achung'uva lainatna kanei kit in gamthip noija suhmang ding kagotsa kahaijin, kana sumang tapoi. Beihel in jong kalha poi.
Dầu vậy, mắt ta đã thương tiếc chúng nó, ta không hủy diệt chúng nó, ta không làm tận tuyệt chúng nó trong đồng vắng.
18 Hitichun keiman achateu chun anu apateu khonung ajui lou diu, amilim doi semthu houva akisuhboh lou diu kadeije.
Ta phán cùng con cái chúng nó trong đồng vắng rằng: Đừng noi theo luật lệ của ông cha các ngươi, đừng giữ mạng lịnh họ, và tự làm ô uế với những thần tượng của họ.
19 Keima na Pakai na Pathen u kahi, kathupeh ho nit uvin lang, kachondan ho lunglut tah in jui uvin.
Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, hãy noi theo luật lệ ta, vâng giữ mạng lịnh ta và làm theo.
20 Chuleh ka cholngah niho athengin koi uvin, ajeh chu hiche hi nang le keima Pakai na Pathen u toh ikiguijop nau melchihna ahi tin kaseipeh uve.
Hãy biệt những ngày sa-bát ta ra thánh, nó sẽ làm dấu giữa ta và các ngươi, hầu cho các ngươi biết rằng ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.
21 Ahivangin lah achate hou jengin keidounan doumah abol'uve. Amahon sei angai uva ahileh ahinpi diu ahijeng vang'in ajui nom pouve. Chuleh amahon ka cholngah niho asukeh kit uve. Hijeh chun kalungsatna hi gamthip noija twisuna kasun lhah khum diu nahi tin kagihsal kit e.
Nhưng con cái dấy loạn nghịch cùng ta; không noi theo luật lệ ta, không vâng giữ và không làm theo mạng lịnh ta, là điều người ta nếu làm theo thì được sống bởi nó; và chúng nó phạm những ngày sa-bát ta nữa. Bấy giờ, ta nói rằng ta sẽ đổ cơn giận ta trên chúng nó, và làm trọn sự giận của ta nghịch cùng chúng nó trong đồng vắng.
22 Hijeng ta jongle kathahat sanna Egypt gam'a konna kahin mu a namtin vaipi ho masanga kamin kijabolna venbit nadingin suhmang dinga kana gotsa kanung lahdoh kit tai.
Song le ta đã kéo tay ta lại, và đã vì danh ta mà làm, hầu cho danh ấy không bị nói phạm trước mắt các dân ngoại, trước mắt các dân ấy ta đã đem chúng nó ra khỏi.
23 Ahinlah gamthip noija chun amaho dounan amahohi namtin vaipi ho lah a kathethang ding ahi tin kihahselna dettah in kabol e.
Vả, ta đã thề cùng chúng nó nơi đồng vắng rằng ta sẽ làm cho chúng nó tan lạc giữa các nước và rải ra trong nhiều nước;
24 Amahon keima chondan ajui nom pouve. Amahon kathupeh ho deimo vetsahnan kacholngah nikho ho asukeh uve. Chuleh aputeu apateu milim doi semthu ho bou chu angaicha jing uve.
vì chúng nó không vâng làm mạng lịnh ta, nhưng đã bỏ lệ luật ta, đã phạm những ngày sa-bát ta, và mắt chúng nó đã hướng về các thần tượng của tổ phụ mình.
25 Keiman amaho chunga chun hinna a apuilou diu thupeh ho leh chondan hi kapen ahi.
Ta cũng đã ban cho chúng nó những luật lệ chẳng lành, và mạng lịnh mà bởi đó chúng nó không được sống.
26 Keiman thilpeh a kapeh ho tah chun amaho leh amaho kisuboh tauvinte katin chuleh a Pathen hou govam thilto a ato diuvin achapa peng masa pen hou govam dingin kaphal peh uve. Hijeh chun amaho kasuhmang theina dingleh keima changseh hi Pakai kahi chu ahetdoh theina dinguva hiche hi kapeh ahi.
Ta làm ô uế chúng nó bởi của cúng chúng nó, khi chúng nó khiến mọi con đầu lòng qua trên lửa, hầu ta làm cho chúng nó ra hoang vu, đến nỗi chúng nó biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
27 Hijeh chun mihem chapa thaneitah Pakaija kon hiche thu Israel mipite chu pen. Napu napateuvin eina taitom un, chuleh mikhutna eina pedoh uve.
Vậy nên, hỡi con người, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên, bảo nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Tổ phụ các ngươi đã nói phạm ta, bởi chúng nó đã phạm pháp nghịch cùng ta.
28 Keiman amohpeh dinga kaki hahselna sa gamsunga kahin puilut phat in amahon molsang sang lai jouse leh thingna engnoi tin amudoh jouseu kithoina govam thilto atoh uve. Amilim doi semthu ho govam thilto ahouvu chun kalungsatna chu asuthou bebe jeng uve. Amahon gim namtwi leh thao namtwi ho chu ahinchoi jun hicheho houva chun aasunglha lha jenguve.
Khi ta đã đem chúng nó vào đất mà ta đã thề ban cho chúng nó, bấy giờ chúng nó đã tìm thấy các gò cao và các cây rậm, mà dâng của lễ mình tại đó; chúng nó đã bày ra tại đó những của cúng chọc giận ta, cũng đã đặt tại đó những hương có mùi thơm, và đã làm lễ quán.
29 Keiman nachennau munsang ho chu ipi kiti ham tia amaho koma kasei jeh chun (pathen tahsan louho muntheng chu tuni chan geijin Bamah munsang akitin ahi)
Bấy giờ ta nói cùng chúng nó rằng: Nơi cao mà các ngươi đi đó là gì? Cho nên nơi cao ấy còn gọi là Ba-ma cho đến ngày nay.
30 Hiijeh chun Israel mite chu thaneitah Pakaija kon hiche thuhi pen. Napu napa teuvin anabol bang banguva chu nangho leh nangho kisuboh dinga nakigot uham? Kidah umtah milim doiho houna a chu nangho leh nangho noti chonna chon jeng dinga nakigel jeng nahlai uham?
Vậy nên, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi tự làm ô uế mình theo cách tổ phụ các ngươi, và các ngươi hành dâm theo những sự gớm ghiếc của họ sao?
31 Ajeh chu nachateu govam thilto dinga nachateu neucha chaho amaho thilpeh a napeh jing jeh uva chu tuni chan gei namilim doi semthu uva chu nakisuhboh jengu ahin, achutile keima komma thu neidoh diu chu kaphal peh diu hinam? O Israle mite! Keima kahin laisen imacha naseipeh pouvinge tin thaneitah Pakaiyin aseije.
Khi các ngươi dâng lễ vật, khi các ngươi cho con trai mình qua lửa, các ngươi còn tự làm ô uế với những thần tượng mình cho đến ngày nay sao? Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta há để cho các ngươi cầu hỏi sao? Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta không để cho các ngươi cầu hỏi!
32 Nanghon akimvel uva namtin vaipiho thingle songa kisem milim doi houho bangin um uhite tin nasei uve. Ahivangin nalung uva nagel u chu hithei louhel ding ahi.
Chẳng có sự gì sẽ xảy ra như điều các ngươi tưởng, khi các ngươi nói rằng: Chúng ta muốn nên như các dân tộc và các họ hàng ở các nước, thờ gỗ và đá.
33 Tahbeh mongin keima kahing jinge tin thaneitah Pakaiyin aseije. Keiman kalung hanna nasatah a nachunga thih khuttuma leh kichat tijatna thahattah'a vai kahin hom khum ding nahi.
Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ấy là dùng tay mạnh mẽ và cánh tay giang ra, lấy thạnh nộ đổ ra mà ta sẽ làm vua trên các ngươi!
34 Chuleh lunghang tah a kakhut thahattah leh kaban jang thahattah kahin lhan doh ding chu nakithe cheh nau gamho a konna kahin le puikhom kit ding nahiuve.
Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi giữa các dân; ta sẽ dùng tay mạnh mẽ và cánh tay giang ra và sự thạnh nộ đổ ra để nhóm các ngươi lại từ các nước mà các ngươi đã bị tan tác trong đó.
35 Keiman namtin vaipi ho gamthip noija kahin puilutna chuleh hiche munna chu kimaito a nathu katan ding ahi.
Ta sẽ đem các ngươi vào nơi đồng vắng của các dân, tại đó ta sẽ đối mặt xét đoán các ngươi.
36 Egypt gam'a konna napu napateu kahin puidoh nunga gamthip noija athu katan banga chu hiche lau munna chu nathu katan ding ahi tin thaneitah Pakaiyin aseije.
Như ta đã xét đoán tổ phụ các ngươi trong đồng vắng đất Ê-díp-tô thể nào, thì ta cũng xét đoán các ngươi thể ấy, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
37 Keiman nang chingthei tah a kavet chil uva chuleh kitepna dungjuija katuh dingu nahi.
Ta sẽ làm cho các ngươi qua dưới gậy, và sẽ đem các ngươi vào trong dây giao ước.
38 Doumah bolho leh kei douna galbol ho jouse nalah uva konna kasuh theng dingu ahi. Keiman amaho chu akisol mang nau gam'a konna kahin puikit uva, ahivanga amaho chu Israel gam lut louhel diu ahi. Hitia chu nanghon keima Pakai kahi chu nahet doh dingu ahi.
Ta sẽ tẩy sạch khỏi các ngươi những kẻ bạn nghịch, và những kẻ phạm pháp nghịch cùng ta; ta sẽ đem chúng nó ra khỏi đất mình trú ngụ, nhưng chúng nó sẽ không vào đất Y-sơ-ra-ên. Như vậy các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
39 O Israel mite, nangho dinga thaneitah Pakai thusei chu hiche hi ahi. Amasanga khun che inlang, chuleh namilim doi semthu ho chu gahou kit tan. Ahivangin agang ham agei ham le nangin kathu nangaija chule namilim doi houva kamintheng suhboh nangah dingu ahitai.
Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, về các ngươi, thì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy đi, mỗi người trong các ngươi khá thờ thần tượng mình! Sau sự đó, các ngươi chắc sẽ nghe ta và sẽ không nói phạm danh thánh của ta nữa bởi của cúng và bởi thần tượng các ngươi.
40 Ajeh chu keima molsang theng leh Israel mol thupi ho chunga chu nikho khat teng chule Israel miten eihin hou dingu, chuleh keiman amaho chu kakisan diu ahi tin thaneitah Pakaiyin aseije. Hiche munna chu nanghon nathilto ho jouseu leh deilhen thilpeh chu kilhaina ho chu nahin ngeh ding ahi.
Chúa Giê-hô-va phán rằng: Vì trên núi thánh ta, trên núi cao của Y-sơ-ra-ên, tại đó cả nhà Y-sơ-ra-ên, hết thảy chúng nó, sẽ hầu việc ta ở trong đất. Tại đó ta sẽ nhận lấy chúng nó; và tại đó ta sẽ đòi của lễ các ngươi, và những trái đầu mùa của của lễ các ngươi, cùng mọi vật thánh.
41 Nakisol mang nauva konna in na kahin puilhung teng uleh keija dinga kilhaina lunglhai umtah chu nahi diu ahi. Chutia chu namtin vaipi ho vet ding nangho a chu kathenna kaphon doh ding ahi.
Ta sẽ nhận lấy các ngươi như mùi thơm tho, khi ta đem các ngươi ra khỏi giữa các dân, và nhóm các ngươi từ những nước mà các ngươi đã bị tan tác; và ta sẽ được tỏ ra thánh trong các ngươi ở trước mắt dân ngoại.
42 Hitia chu keiman napu napa teu koma peh dinga tahsan tah a kaki hahsella kaki tepna gamsung a in uva kahin lut tengu leh nang hon keima hi Pakai kahi ti neihet dingu ahi.
Các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta sẽ đem các ngươi vào đất của Y-sơ-ra-ên, trong nước mà ta đã dùng lời thề hứa ban cho tổ phụ các ngươi.
43 Nanghon nahole nangho nakisuhboh nau lampi ho chu nanung vet uva chule nathilse boljeh uva nangho leh nangho jong nakideimo dingu ahi.
Tại đó các ngươi sẽ nhớ lại đường lối mình và mọi việc tự mình làm nên ô uế; các ngươi sẽ tự chán ngán trước mắt mình, vì cớ mọi sự dữ mình đã phạm.
44 O Israel mite, nangho nagitlouna dungjui hilouva kamin jabolna jal'a ngailutna lhingsetna kagihsal uleh nanghon keima hi Pakai kahi ti nahin hetdoh dingu ahi, tin thaneitah Pakaiyin anaseije.
Các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta sẽ vì danh ta mà đãi các ngươi, chớ không theo đường lối xấu xa và việc làm hư nát của các ngươi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
45 Hiti chun Pakaija konin hiche thuseihi kahenga ahung lhunge.
Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
46 Mihem chapa kiheiyin lang lhanglang khu namai ngait inlang chule amaho dounan thuseijin: Negev gammang dounan gaothu seijin.
Hỡi con người, hãy xây mặt về phía nam, đối với phương nam mà nói: đối với rừng của đồng nội phương nam mà nói tiên tri.
47 Lhanglang sang gamthip jah a khun seipeh in, ‘hichehi thaneitah Pakai thusei ahi; Pakai thusei hi ngaijuvin! Keiman mei kahin halla chule thingphung jouse chu a-eng hihen ago hijongleh ania kavam soh ding ahi. Tijat umtah ameikou chu kisumit pontin, lhanglang sanga patna sahlang sang chan a kagop ding ahi.
Khá nói cùng rừng phương nam rằng: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va! Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ nhen lửa trong ngươi, lửa sẽ thiêu nuốt hết cả cây xanh và cả cây khô nơi ngươi. Ngọn lửa hừng sẽ không tắt, mọi mặt sẽ bị cháy bởi nó từ phương nam chí phương bắc.
48 Chutia chu vannoi leisetna mijousen hiche mei chu keima hal ahi ti amu cheh diu ahin, kiphel mit joulou ding ahi.
Mọi xác thịt sẽ thấy rằng ấy là ta, Đức Giê-hô-va, đã nhen lửa; lửa sẽ không hề tắt.
49 Hichun keiman, O thaneitah Pakai! Aman thuchih jengin thu aseije, tin kajah a aseijuve katin ahi.
Bấy giờ ta nói rằng: Oâi! Hỡi Chúa Giê-hô-va, họ nói về tôi rằng: Nó chẳng phải là kẻ nói thí dụ sao?

< Ezekiel 20 >