< Ezekiel 1 >

1 Juda mi Babylon gam Chebar vadung pang a sohchang ho lah a kana umna kum somle kumthum alhin kum July 31 lhinni achun van ana kihongin chule Pathen thilmu theina chu kana mui.
Năm thứ ba mươi, ngày mồng năm tháng tư, khi ta đang ở giữa phu tù, trên bờ sông Kê-ba, các từng trời mở ra, và ta xem những sự hiện thấy của Đức Chúa Trời.
2 Hiche hi Jehoiachin lengpa asohchan jou kal kum nga lhin kuma chu soh ahi.
Ngày mồng năm tháng ấy, bấy giờ là năm thứ năm sau khi vua Giê-hô-gia-kin bị bắt làm phu tù,
3 (Pakaiyin hiche thuhi Buzi chapa Ezekiel thempupa kom a Babylon lenggam Chebar vadung panga aum petna anapeh ahin, chule Pakai khut chu achungah ana kingame)
lời của Đức Giê-hô-va được phán riêng cho thầy tế lễ Ê-xê-chi-ên, con trai Bu-xi, tại trong đất người Canh-đê, trên bờ sông Kê-ba. Aáy là tại đó mà tay Đức Giê-hô-va đặt trên người.
4 Keiman kavet pettah chun Sahlam a kon huipi gopi nasatah ahung kitol kamun, Meilhang lentah masanga kolphe toh kitho a vah pempumin ahunge. Meilom lah a chun meikou aumin, chule meikou lailunga chun khichang tobang meikou vahlap lap aume.
Nầy, ta thấy có luồng gió bão đến từ phương bắc, một đám mây lớn bọc lửa giãi sáng khắp tư bề; từ giữa nó, thấy như loài kim bóng nhoáng ra từ chính giữa lửa.
5 Meilom lailunga kon chun mihem melput tobang thil hing thei li ahung doh e.
Từ giữa nó, thấy giống như bốn vật sống, hình trạng như vầy: bộ giống người,
6 Maili leh lhaving li aneiyu tailouvin,
mỗi con có bốn mặt và bốn cánh.
7 Akeng hou chu ajangpet in, akengphangu chu bongnou keng to abangin alange.
Chân nó thẳng, bàn chân như bàn chân bò con đực; sáng ngời như đồng bóng nhoáng.
8 Alhaving li noicheh a chun mihem ho khut kamu doh e.
Dưới những cánh nó, bốn bên đều có tay người; bốn con có mặt và có cánh mình như sau nầy:
9 Ahingthei ho lhaving ho chu khat le khat akijop jel cheh in ahi. Khat cheh a chu akipat doh teng leh kihei louvin jangpet in masang lam ngan akijot jiuve.
cánh tiếp giáp nhau khi đi, không xây lại, mỗi con cứ đi thẳng tới.
10 Amasang uva chun mihem mai aneiyun, ajetlang uva chun keipi mai aneiyun, aveilang uva chun bongchal mai aneiyun, chule anung lam uva chun muvanlai mai anei cheh uve.
Còn như hình mặt nó, thì bốn con đều có mặt người; bốn con đều có mặt sư tử ở bên hữu; bốn con đều có mặt bò ở bên tả; và bốn con đều có mặt chim ưng.
11 Khat cheh chun lhaving kijal doh kopni cheh aneiyun, kopn khat cheh chu akijal doh teng ganhing achom khat cheh lhaving chutoh akijop mat jel jengin, chule kop khat cheh chun atahsao akhu chah kheh cheh un ahi.
Những mặt và cánh phân rẽ ra bởi trên cao; mỗi con có hai cánh giáp với nhau, và có hai cánh che thân mình.
12 Amaho chu ipi hijongle lhagaovin alhenpeh nalam ngan ajet aveija kiheidoh lou hellin jangpet in ache pai jeng jiuve.
Mỗi con đi thẳng tới: thần khiến đi đâu thì đi đó, không xây mình lại trong khi đi.
13 Ganhing liho chu meihol ampem puma kou abangin, ahilouleh meisel lou vah pempum kide abangin, chule kolphe vah bangin amaho lah a chun aki nungtol akima tollun ahi.
Hình trạng của những vật sống ấy giống như hình trạng than đỏ và đuốc lửa; lửa lên xuống giữa các vật sống ấy, lửa nhoáng sáng và có chớp từ nó phát ra.
14 Chule ganhing liho chu kolphe vahlap lap bang khun achom le jap jap jeng uvin ahi.
Các vật sống ấy chạy đi và trở lại như hình trạng chớp nhoáng.
15 Hitia keiman ganhing liho chu kavetna ahileh leiset chunga chun kangtalai kang ho chu akomuva chun kamun kang khat cheh chu amaho khat cheh a achandiu chu ahi.
Vả, đang khi ta ngắm xem các vật sống ấy, nầy, trên đất có một cái bánh xe ở kề bên các vật sống ấy, mỗi một trong bốn mặt đều có một bánh xe.
16 Kangtalai khat cheh chu hoitah a vahsetna song en tobanga kisemin akimun, liho chu abpn uvin kibang cheh akimun, chule amaho chu kibang cheh a kisem ahiuvin kang khat cheh velkol a chu kangni na aneicheh uve.
Hình và kiểu những bánh xe ấy giống như bích ngọc; hết thảy bốn bánh đều giống nhau; hình và kiểu như là bánh xe trong bánh xe.
17 Hiche ho chu akitol tengule kihei lou hella gamkai li a achu angat na lam lama chu kihei jeng thei ahiuve.
Khi đi tới, thì đều đi bốn phía mình: khi đi không phải xây lại.
18 Hiche kang li ho chu sang tah cheh ahiuvin, chule timul tho aumin, chule akang ho kimvel a chun met jeng mit jeng in atom dimsetne.
Vòng bánh xe cao và dễ sợ; và vòng bánh xe của bốn con đều đầy những mắt.
19 Ganhing ho chu ache tenguleh kangtalai kang ho jong chu amaho toh thakhat'in achekhom jiuvin, chung langa alen tou teng uleh akang ho jong chu ache tou jiuve.
Khi các vật sống đi, các bánh xe cũng đi kề bên; các vật sống bị cất lên khỏi đất, các bánh xe cũng bị cất lên như vậy.
20 Ganhing ho lhagao chu akang ho a chu uma ahi. Hijeh a chu lhagao chena lam lama chu akang ho le ganhing ho jong che jiu ahi.
Thần muốn đi đâu thì các vật sống đi đó; thần đi đó thì các bánh xe cũng bị cất lên kề bên các vật sống; vì thần của vật sống đó ở trong các bánh xe.
21 Hiche ho chu ache teng uleh akang ho chu che jiu ahin, hiche ho chu adin teng uleh akang ho kinga ji ahi. Hiche ho chu chung langa alen tou tengu leh akanga chu ganhing ho lhagao uma ahijeh chun akang ho chu akipat doh jiuvin ahi.
Khi các vật sống đi, chúng nó cũng đi; dừng, chúng nó cũng dừng; và khi các vật sống bị cất lên khỏi đất, thì các bánh xe cũng bị cất lên kề bên, vì thần của vật sống ở trong các bánh xe.
22 Aluvum uva kijal doh chu vanthamjol tobang khat akidalin songvalset vah'in avahsetne.
ỳ trên đầu vật sống, thấy một vòng khung, giống như thủy tinh dễ sợ, giãi ra trên đầu chúng nó.
23 Anoija chun ganhing ho lhavingu chu khat leh khat kijop cheh in akijal doh in chule alhaving ni chun atahsau khat cheh chu akhun ahi.
Dưới vòng khung đó, các cánh nó sè thẳng ra, cái nầy đối với cái kia. Các vật ấy mỗi con có hai cánh che thân thể mình ở bên nầy và bên kia.
24 Alen teng ule alhaving ho gin husau chu keima jah in twitam tah in twipang hattah a atagin ahiloule Hatchungung ogin ahiloule, sepai hon tamtah husa gin bangin kajan ahi. Adin teng uleh alhaving u chu akhailha jiuve.
Khi đi tới, ta nghe tiếng của những cánh chúng nó, như nước lớn ầm ầm, như tiếng của Đấng Toàn năng, tiếng om sòm như tiếng một đạo binh vậy. Khi dừng lại, thì xủ cánh xuống.
25 Alhaving u akhailhah uva adin teng uleh vanthamjol tobang valset chunga kon chun o khat in thu ahin seijin ahi.
Lúc chúng nó dừng lại và xủ cánh xuống, thì từ nơi vòng khung trên đầu có tiếng vang ra.
26 Achung vum'a chun songval duma kisem laltouna tobang khat akimun ahi. Chule hiche laltouna sangtah chunga kitousah pachu mihem lim leh melput tobang ahi.
Bên trên vòng khung giãi trên đầu các vật sống, có hình như cái ngai, trạng nó như là bích ngọc; trên hình ngai ấy có hình như người ở trên nó.
27 Akongbuh akipat akilah dan chu khichang vala meikou olla kimujap bangin akimun ahi. Chule akongbuh noilamse chu meikou tobang'in akimvel vah pempum bangin akimun ahi.
Trong ngai và mọi nơi chung quanh, ta cũng thấy như đồng bóng nhoáng, giống lửa, từ trạng ngang lưng người ấy trở lên; và từ trạng ngang lưng trở xuống, ta thấy như lửa sáng hừng chung quanh.
28 Gojuh nikho a meilah a lhagui kimu bang khun avah pempum in ahi. Hiche hi Pakai loupina keiman kamu abangin, keiman hichehi kamu phat in kamai tollah kasulut in ahileh ogin khat in keima koma ogin kkhat anasei chu kajan ahi.
Aùnh sáng thấy chung quanh đó giống như ánh sáng của cái mống trong mây khi đang mưa. Aáy là tỏ ra hình trạng của sự vinh quang Đức Giê-hô-va. Ta thấy thì sấp mặt xuống, và nghe tiếng của một Đấng phán cùng ta.

< Ezekiel 1 >