< Mga Salmo 10 >
1 O Yahweh, nganong nagpalayo ka man kanako? Nganong gitagoan mo man ang imong kaugalingon sa panahon sa kalisdanan?
(Thơ của Đa-vít, soạn cho nhạc trưởng) Chúa Hằng Hữu, Ngài ở tận nơi đâu? Khi nguy khốn sao Ngài đành giấu mặt?
2 Tungod sa ilang pagkamapahitas-on, gilutos sa mga tawong daotan ang mga dinaogdaog; apan palihog tugoti nga malit-ag ang mga daotan pinaagi sa ilang kaugalingong gipanglaraw.
Vì kiêu ngạo, người ác hăm hở đuổi theo người bị hại. Nhưng xin cho họ sa vào mưu chước họ đã bày ra.
3 Kay gipasigarbo sa tawong daotan sa iyang labing lalom nga mga tinguha; gipanalanginan niya ang mga hakog ug gibiaybiay si Yahweh.
Bọn người ác khoe khoang về dục vọng; theo kẻ tham lam, nguyền rủa, khinh Chúa Hằng Hữu.
4 Ang tawong daotan nagpataas sa iyang panagway; wala niya pangitaa ang Dios. Wala gayod siya maghunahuna mahitungod sa Dios tungod kay wala gayod siya magpakabana mahitungod kaniya.
Người ác kiêu ngạo không tìm kiếm Đức Chúa Trời. Dường như họ nghĩ Đức Chúa Trời không hiện hữu.
5 Luwas siya sa tanang panahon, apan ang imong matarong nga kasugoan hataas pa kaayo alang kaniya; giyam-iran niya ang tanan niyang mga kaaway.
Vì đường lối họ thành công luôn. Họ tự cao và luật lệ Chúa quá xa xôi với họ. Họ nhạo cười tất cả kẻ thù.
6 Nag-ingon siya sa iyang kasingkasing, “Dili gayod ako mapakyas; sa tibuok kaliwatan dili ako makatagamtam ug kalisod.”
Họ tự nhủ: “Chẳng bao giờ ta bị chao đảo! Hạnh phúc luôn luôn và chẳng gặp tai ương!”
7 Ang iyang baba napuno sa mga pagtunglo ug sa mga bakak, makadaot nga mga pulong; ang iyang dila makadaot ug makalaglag.
Miệng đầy lời chửi rủa, dối trá, và đe dọa. Lưỡi họ toàn lời gây rối và độc ác.
8 Mag-atang siya sa kabaryohan; diha sa hilit nga dapit pamatyon niya ang walay sala; ang iyang mga mata naniid sa mga tawong walay mahimo.
Họ rình rập nơi thôn làng, mai phục ám sát người vô tội. Bí mật rình mò chờ nạn nhân.
9 Nagbantay siya sa hilit sama sa liyon nga anaa sa kasagbotan; naghupo ug naghulat sa pagtukob sa mga dinaogdaog. Gidakop niya ang mga dinaogdaog pinaagi sa pagbira niya sa iyang pukot.
Họ nằm yên như sư tử ngụy trang, để bắt người khốn cùng. Họ bắt được người ấy và gỡ ra khỏi lưới.
10 Gidugmok ug gilutos niya ang iyang gibiktima; nahulog (sila) ngadto sa iyang lig-on nga mga pukot.
Các nạn nhân cô thế bị chà nát; trước sức mạnh đành phải chịu đầu hàng.
11 Nag-ingon siya sa iyang kasingkasing, “Nahikalimot na ang Dios; gitagoan niya ang iyang panagway; dili na siya magpakabana sa pagtan-aw.”
Người ác nhủ thầm: “Chúa chẳng xem việc chúng ta đâu! Ngài che mặt, chẳng bao giờ trông thấy!”
12 Barog, O Yahweh! Bayawa ang imong kamot, O Dios! Ayaw kalimti ang mga dinaogdaog.
Chúa Hằng Hữu, xin trỗi dậy! Xin trừng phạt người ác, lạy Đức Chúa Trời! Xin đừng quên cứu giúp người khốn cùng!
13 Nganong gisalikway man sa tawong daotan ang Dios ug nag-ingon sa iyang kasingkasing, “Dili mo ako basolon”?
Sao để cho ác nhân phỉ báng Đức Chúa Trời? Rồi thầm nghĩ: “Chúa không bao giờ tra hỏi.”
14 Nakakita ka niini, kay nakita mo kanunay ang nagpahamtang sa mga pag-antos ug mga kagul-anan. Gitugyan sa mga makaluluoy ang ilang kaugalingon diha kanimo; giluwas mo ang mga ilo.
Nhưng lạy Chúa, Chúa thấy rõ những khó khăn sầu khổ. Xin Chúa ghi vào và hình phạt ác nhân. Nạn nhân chỉ trông chờ nơi Chúa. Vì Chúa là Đấng bênh vực người mồ côi.
15 Dugmoka ang bukton sa masalaypon ug tawong daotan. Paningli siya sa iyang daotang mga binuhatan, nga gihunahuna niya nga dili mo masayran.
Xin bẻ gãy cánh tay người độc hại và gian ác! Và bắt chúng khai hết những hành vi bạo tàn.
16 Si Yahweh Hari hangtod sa kahangtoran; gipapahawa niya ang kanasoran sa iyang yuta.
Chúa Hằng Hữu là Vua muôn đời! Các dân sẽ bị diệt khỏi nước Ngài.
17 O Yahweh, gidungog mo ang mga panginahanglan sa mga dinaogdaog; gilig-on mo ang ilang kasingkasing, gipatalinghogan mo ang ilang pag-ampo;
Chúa Hằng Hữu đã nghe ước nguyện người khốn khổ. Ngài lắng nghe và an ủi tâm hồn.
18 Gipanalipdan mo ang mga ilo ug ang mga dinaogdaog aron walay tawo sa kalibotan ang mangalisang pag-usab.
Ngài bênh vực người bị áp bức và mồ côi, để những người sinh ra từ đất không còn gây sợ hãi.