< Giê-rê-mi-a 50 >

1 Nầy là lời Ðức Giê-hô-va bởi tiên tri Giê-rê-mi phán về Ba-by-lôn, về đất của người Canh-đê:
Ĩno nĩyo ndũmĩrĩri ĩrĩa Jehova aaririe na kanua ka Jeremia ũcio mũnabii, ũhoro ũkoniĩ Babuloni na andũ a bũrũri wa Babuloni:
2 Hãy rao, hãy bảo cho các nước, và dựng cờ xí; hãy rao truyền đi, đừng có giấu! Hãy nói rằng: Ba-by-lôn bị bắt lấy; Bên đầy hổ thẹn; Mê-rô-đác bị kinh hãi; hình tượng nó mang xấu hổ, thần tượng nó bị phá đổ!
“Anĩrĩrai na mũhunjanĩrie ũhoro ndũrĩrĩ-inĩ, haandai kĩbebero na mũhunjanĩrie ũhoro wakĩo; mũtikamahithe ũndũ, no mũmeere atĩrĩ, ‘Babuloni nĩgũgũtunyanwo; Beli nĩĩgũconorithio, nayo Merodaki ĩiyũrwo nĩ kĩmako. Mĩhianano yakuo nĩĩgaconorithio, na mĩhianano yao nĩĩkaiyũrwo nĩ guoya.’
3 Vì một dân đến từ phương bắc nghịch cùng nó, làm cho đất nó ra hoang vu, không có dân ở nữa; người và súc vật đều trốn tránh, và đi mất.
Tondũ rũrĩrĩ ruumĩte mwena wa gathigathini nĩrũkamũtharĩkĩra, na rwanange bũrũri wake. Gũtirĩ mũndũ ũgaatũũra kuo; andũ nĩmakoora o hamwe na nyamũ.
4 Ðức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, trong kỳ đó, con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa cùng nhau trở lại, vừa đi vừa khóc, tìm kiếm Giê-hô-va Ðức Chúa Trời mình.
“Matukũ-inĩ macio, na ihinda-inĩ rĩu, andũ a Isiraeli na andũ a Juda hamwe nĩmagathiĩ macarie Jehova Ngai wao makĩrĩraga,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
5 Chúng nó hướng mặt về Si-ôn, hỏi thăm về nó mà rằng: Hãy đến, liên kết với Ðức Giê-hô-va bởi một giao ước đời đời sẽ không quên!
“Nĩmakoorĩrĩria njĩra ya gũthiĩ Zayuni, na magarũrũke, merekeirie mothiũ mao kuo. Nĩmagooka meeohanie na Jehova, na marĩkanĩre kĩrĩkanĩro gĩa gũtũũra tene na tene kĩrĩa gĩtagacooka kũriganĩra.
6 Dân ta vốn là một bầy chiên lạc mất; những kẻ chăn làm cho lộn đường, để chúng nó lầm lạc trên các núi, đi từ núi qua gò, quên chỗ mình an nghỉ.
“Andũ akwa makoretwo marĩ ngʼondu ciũrĩte; arĩithi ao nĩmamahĩtithĩtie njĩra, na magatũma morũũre irĩma igũrũ. Nao morũũrĩte kuuma kĩrĩma-inĩ nginya karĩma-inĩ, makariganĩrwo nĩ kũrĩa ũhurũko wao ũrĩ.
7 Phàm những kẻ gặp, đều vồ nuốt chúng nó; và những kẻ nghịch chúng nó đều nói rằng: Chúng ta không đáng tội, vì chúng nó đã phạm tội nghịch cùng Ðức Giê-hô-va, là nơi ở của sự công bình, tức là Ðức Giê-hô-va, sự trông cậy của tổ phụ chúng nó.
Ũrĩa wothe wamoonire akĩmatambuura; thũ ciao ikiuga atĩrĩ, ‘Ithuĩ tũtirĩ na ihĩtia, nĩ ũndũ nĩmehĩirie Jehova, ũrĩa arĩ we ũrĩithio wao wa ma, o we Jehova, mwĩhoko wa maithe mao.’
8 Hãy trốn ra ngoài Ba-by-lôn, ra khỏi đất người Canh-đê, hãy đi như dê đực đi đầu bầy!
“Mwĩtharei muume Babuloni; eherai bũrũri wa andũ a Babuloni, na mũtuĩke ta thenge iria itongoragia rũũru rwa mbũri.
9 Vì nầy, ta sẽ khiến nhiều dân tộc dấy lên từ xứ phương bắc, và đến nghịch cùng Ba-by-lôn, các dân ấy sẽ dàn trận đánh Ba-by-lôn, và từ đó nó bị hãm lấy. Tên chúng nó bắn như tên của lính chiến giỏi, chẳng trở về không.
Nĩgũkorwo nĩngarahũra ũiguano wa ndũrĩrĩ nene, ciumĩte bũrũri wa gathigathini ciũkĩrĩre Babuloni. Nĩikarũgama handũ ha cio irĩũkĩrĩre na igũtunyane, kuuma mwena ũcio wa gathigathini. Mĩguĩ yao ĩgaatuĩka ta ĩrĩa ya njamba njoorua, iria itacookaga moko matheri.
10 Canh-đê sẽ bị cướp lấy, phàm kẻ cướp lấy nó sẽ được no nê, Ðức Giê-hô-va phán vậy.
Nĩ ũndũ ũcio Babuloni nĩgũgatahwo; andũ othe arĩa magaagũtaha nĩmagakuua indo cia kũmaigana,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
11 Hỡi kẻ cướp sản nghiệp ta, vì các ngươi vui mừng hớn hở, vì các ngươi buông lung như bò cái tơ đạp lúa, reo hí như ngựa mập mạnh;
“Tondũ nĩmũkenete na mũkarũũhia, inyuĩ arĩa mũtahaga igai rĩakwa, tondũ mũgũtũũha ta moori ĩkĩraanga ngano ĩkĩmĩhũũra, na mũkaania ta mbarathi cia njamba,
12 bởi vậy, mẹ các ngươi rất mang xấu hổ, kẻ đẻ các ngươi bị thẹn thuồng. Kìa, nó sẽ làm cuối cùng hàng các nước, một đồng vắng, một đất khô khan, một nơi sa mạc.
nyina wanyu nĩagaconoka mũno; we ũcio wamũciarire nĩagaconorithio. Nĩwe ũgaakorwo arĩ mũnini mũno ndũrĩrĩ-inĩ, atuĩke ta werũ, na ta bũrũri mũngʼaru, o na ta werũ wa mũthanga.
13 Bởi cơn giận của Ðức Giê-hô-va, nó sẽ không có người ở nữa, chỉ thành ra nơi hoang vu cả; phàm những kẻ đi qua gần Ba-by-lôn sẽ lấy làm lạ, và xỉ báng về các tai nạn nó.
Tondũ wa marakara ma Jehova, bũrũri ũcio ndũgacooka gũtũũrwo nĩ andũ, no rĩrĩ, nĩgũkira gũgaakira ihooru biũ. Andũ arĩa othe makaagerera kũu Babuloni nĩmakamaka, na manyũrũrie kũndũ kũu tondũ wa ũrĩa gũgaakorwo kwanangĩtwo.
14 Hỡi các ngươi là kẻ hay giương cung! hãy dàn trận nghịch cùng Ba-by-lôn chung quanh; hãy bắn nó, đừng tiếc tên: vì nó đã phạm tội nghịch cùng Ðức Giê-hô-va.
“Mwĩhaarĩrie mũthiũrũrũkĩrie Babuloni, inyuothe arĩa mũgeetaga ũta. Rĩrathei! Mũtigatigie mĩguĩ, nĩgũkorwo nĩrĩĩhĩirie Jehova.
15 Khá kêu la nghịch cùng nó khắp tư bề. Nó đã hàng đầu, lũy nó sập xuống, tường thành nó nghiêng đổ: ấy là sự báo thù của Ðức Giê-hô-va! Hãy trả thù nó: làm cho nó như nó đã làm.
Riugĩrĩriei kuuma na mĩena yothe! Nĩrĩĩneanĩte rĩo rĩene, mĩthiringo yarĩo nĩĩgwĩte, na thingo ciarĩo nĩimomokete. Nĩgũkorwo rĩĩrĩ nĩrĩo irĩhĩria rĩa Jehova-rĩ, mwĩrĩhĩriei harĩ rĩo; rĩĩkei o ta ũrĩa rĩaneeka andũ arĩa angĩ.
16 Hãy diệt những kẻ gieo giống trong Ba-by-lôn, cùng kẻ cầm liềm trong mùa gặt; vì sợ gươm kẻ ức hiếp, ai nầy sẽ trở về dân mình, ai nầy sẽ trốn về đất mình.
Eheriai ũrĩa ũhaandaga kũu Babuloni, na ũrĩa ũgethaga na rũhiũ rwake hĩndĩ ya magetha. Tondũ wa rũhiũ rũu rwa njora rwa mũhinyanĩrĩria-rĩ, o mũndũ nĩacooke kũrĩ andũ ao, o mũndũ nĩorĩre bũrũri wao kĩũmbe.
17 Y-sơ-ra-ên là một con chiên tan lạc, bị sư tử đuổi theo. Trước hết vua A-si-ri đã vồ nuốt nó; nay sau hết Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã làm tan xương nó ra.
“Isiraeli ahaana ta rũũru rũhurunjũkĩte, rũtengʼeretio nĩ mĩrũũthi. Mũthamaki wa Ashuri nĩwe warĩ wa mbere kũmũtambuura; wa kũrigĩrĩria kũmũhehenja mahĩndĩ-rĩ, aarĩ Nebukadinezaru, mũthamaki wa Babuloni.”
18 Vậy nên, Ðức Giê-hô-va vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và đất nó, như đã phạt vua A-si-ri.
Nĩ ũndũ ũcio, Jehova Mwene-Hinya-Wothe, Ngai wa Isiraeli, ekuuga atĩrĩ: “Nĩngaherithia mũthamaki wa Babuloni na bũrũri wake, o ta ũrĩa ndaaherithirie mũthamaki wa Ashuri.
19 Ðoạn ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về trong đồng cỏ nó. Nó sẽ ăn cỏ trên Cạt-mên và Ba-san, lòng nó sẽ được no nê trên các đồn Ép-ra-im và Ga-la-át.
No nĩngacookia Isiraeli ũrĩithio-inĩ wake mwene, nake akaarĩithagĩria kũu Karimeli na Bashani; akaarĩĩaga akahũũna kũu irima-inĩ cia Efiraimu, na cia Gileadi.
20 Ðức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó bấy giờ, người ta sẽ tìm sự gian ác của Y-sơ-ra-ên, mà không có nữa; tìm tội lỗi của Giu-đa, mà chẳng thấy nữa đâu; vì ta sẽ tha tội cho những kẻ trong vòng chúng nó mà ta đã chừa lại.
Matukũ-inĩ macio, o ihinda-inĩ rĩu-rĩ, ihĩtia rĩa Isiraeli nĩrĩgathuthuurio, no rĩtikoneka, o na mehia ma Juda mathuthuurio, no matikooneka, nĩgũkorwo matigari marĩa ngaahonokia nĩngamarekera,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
21 Ðức Giê-hô-va phán: Hãy lên đánh đất Mê-ra-tha-im, và dân cư Phê-cốt; hãy giết và diệt hết theo sau nó, và làm y như mọi điều ta đã dặn ngươi!
“Tharĩkĩrai bũrũri wa Merathaimu, mũũkĩrĩre arĩa matũũraga Pekodi. Matengʼeriei, na mũmoorage, mũmaniine biũ,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga. “Ĩkai ũrĩa wothe ndĩmwathĩte.
22 Tiếng kêu về giặc giã vang động trong đất; tai vạ lớn lắm.
Kũrĩ na mbugĩrĩrio ya mbaara bũrũri-inĩ ũcio, nayo nĩ mbugĩrĩrio ya kũniinanwo kũnene!
23 Cái búa của cả đất đã bị bẻ gãy là dường nào! Ba-by-lôn đã trở nên hoang vu gia các nước là dường nào!
Nyondo ĩrĩa ĩtũũrĩte ĩhũũraga thĩ yothe-rĩ, kaĩ nĩyunangĩtwo, ĩgathethereka-ĩ! Kaĩ Babuloni nĩgũkirĩte ihooru gatagatĩ-inĩ ka ndũrĩrĩ-ĩ!
24 Hãy Ba-by-lôn, ta đã gài bẫy, và ngươi đã mắc vào là không biết! Ngươi đã bị tìm và bắt được, vì đã tranh cạnh cùng Ðức Giê-hô-va.
Ndaakwambĩire mũtego, wee Babuloni, nawe ũkĩgwatio nĩguo ũtekũmenya; wakorereirwo, ũkĩnyiitwo tondũ wa gũkararia Jehova.
25 Ðức Giê-hô-va đã mở kho khí giới mình, lấy binh khí của sự thạnh nộ ra; vì Chúa, là Ðức Giê-hô-va vạn quân, có việc phải làm ra trong đất người Canh-đê.
Jehova nĩahingũrĩte harĩa aigaga indo ciake cia mbaara, akaruta indo icio cia mbaara cia mangʼũrĩ make, nĩgũkorwo Mwathani Jehova Mwene-Hinya-Wothe arĩ na wĩra wa kũruta kũu bũrũri-inĩ wa andũ a Babuloni.
26 Hãy đến từ bờ cõi rất xa nghịch cùng nó; hãy mở kho tàng nó ra, chất lên như đống, hãy diệt hết cả, đừng để lại chút gì!
Ũkaai mũgũtharĩkĩre muumĩte kũndũ kũraya. Thariai makũmbĩ makuo; gũcookanĩrĩriei irũndo ta cia hĩba cia ngano. Kwanangei biũ, na mũtigatigie matigari kuo.
27 Hãy giết mọi bò đực nó, đem xuống hàng thịt! Kiên nhẫn cho chúng nó, vì ngày chúng nó đã đến, ấy là kỳ thăm phạt chúng nó!
Ũragai tũtegwa twakuo tuothe, tũikũrũkiei tũgathĩnjwo! Kaĩ marĩ na haaro-ĩ! Nĩgũkorwo mũthenya watuo nĩmũkinyu, ihinda rĩatuo rĩa kũherithio.
28 Hãy nghe tiếng kêu của kẻ đi trốn, của những kẻ thoát khỏi đất Ba-by-lôn, đặng rao ra trong Si-ôn sự báo thù của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng ta, sự báo thù về đền thờ Ngài.
Ta thikĩrĩriai mũigue arĩa moorĩte na arĩa metharĩte makoima bũrũri wa Babuloni, makiumbũra marĩ kũu Zayuni ũrĩa Jehova Ngai witũ erĩhĩirie, akerĩhĩria nĩ ũndũ wa hekarũ yake.
29 Hãy gọi hết thảy những kẻ cầm cung, mọi người giương cung đến đánh Ba-by-lôn; đóng trại chung quanh nó; đừng để cho ai thoát khỏi! Hãy theo công việc nó mà báo trả, làm cho nó trọn như nó đã làm; vì nó lên mình kiêu ngạo nghịch cùng Ðức Giê-hô-va, nghịch cùng Ðấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
“Ĩtai aikia a mĩguĩ mokĩrĩre Babuloni, o arĩa othe mageetaga ũta. Ambaai hema mũgũthiũrũrũkĩirie; mũtikareke mũndũ o na ũmwe warĩo oore. Rĩrĩhei kũringana na ciĩko ciarĩo; o ta ũrĩa rĩaneeka andũ angĩ-rĩ, rĩĩkei o ta guo. Nĩgũkorwo nĩrĩngʼathĩirie Jehova, o we Ũrĩa Mũtheru wa Isiraeli.
30 Vậy nên, bọn trai trẻ nó sẽ ngã trên các đường phố, và trong ngày đó, những người đánh giặc của nó sẽ phải nín lặng, Ðức Giê-hô-va phán vậy.
Nĩ ũndũ ũcio, aanake aarĩo nĩmakaagũa njĩra-inĩ cia itũũra; thigari ciarĩo ciothe nĩigakirio ki mũthenya ũcio,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
31 Chúa, là Ðức Giê-hô-va vạn quân, phán: Hỡi dân kiêu ngạo, nầy, ta hờn giận ngươi: vì ngày ngươi đã đến, ấy là kỳ ta sẽ thăm phạt ngươi.
“Atĩrĩrĩ, nĩngũũkĩrĩire, wee mwĩtĩĩi ũyũ, nĩgũkorwo mũthenya waku nĩmũkinyu, o rĩo ihinda rĩaku rĩa kũherithio,” ũguo nĩguo Mwathani, o we Jehova-Mwene-Hinya-Wothe, ekuuga.
32 Kẻ kiêu ngạo sẽ xiêu tó, vấp ngã, không ai dựng lại. Ta sẽ đốt lửa nơi các thành nó, thiêu nuốt mọi sự chung quanh.
“Mwĩtĩĩi ũcio nĩakahĩngwo agwe, na gũtirĩ mũndũ ũkaamũũkĩria; nĩngagwatia matũũra makuo mwaki, naguo nĩũgaacina arĩa othe mamũrigiicĩirie, maniinwo biũ.”
33 Ðức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa thảy cùng nhau chịu hà hiếp. Phàm những kẻ bắt chúng nó đi làm phu tù đều giu chúng nó lại, chẳng khứng thả ra.
Jehova Mwene-Hinya-Wothe ekuuga atĩrĩ, “Andũ a Isiraeli nĩmahinyĩrĩirio, o ũndũ ũmwe na andũ a Juda. Arĩa othe maamatahire nĩmamarũmĩtie mũno, makarega kũmarekia mathiĩ.
34 Ðấng Cứu chuộc chúng nó là mạnh mẽ, danh Ngài là Ðức Giê-hô-va vạn quân. Ngài sẽ đối nại việc chúng nó chắc chắn, đặng cho cả đất được ý nghĩ, và làm bối rối dân cư Ba-by-lôn.
No rĩrĩ, Mũkũũri wao arĩ na hinya; Jehova Mwene-Hinya-Wothe nĩrĩo rĩĩtwa rĩake. Nĩakamarũĩrĩra na kĩyo ciira-inĩ wao, nĩguo atũme bũrũri wao ũgĩe na ũhurũko, no aagithie arĩa matũũraga Babuloni ũhurũko.”
35 Ðức Giê-hô-va phán: Gươm dao ở trên người Canh-đê, trên dân cư Ba-by-lôn, trên các quan trưởng và các người khôn ngoan nó.
Jehova ekuuga atĩrĩ: “Harĩ na rũhiũ rwa njora rwa gũũkĩrĩra andũ a Babuloni, rũũkĩrĩre arĩa matũũraga Babuloni, na rũũkĩrĩre anene na andũ arĩa ogĩ akuo!
36 Gươm dao trên những người khoe khoang, chúng nó sẽ nên người dại dột! Gươm dao ở trên những kẻ mạnh mẽ, chúng nó sẽ bị kinh khiếp!
Rũhiũ rwa njora rũgookĩrĩra anabii akuo a maheeni, nao matuĩke irimũ. Ningĩ rũhiũ rwa njora nĩrũgookĩrĩra njamba ciakuo iria irĩ hinya, nacio nĩikaiyũrwo nĩ kĩmako kĩnene.
37 Gươm dao ở trên những xe, ngựa, cùng mọi dân lộn giống giữa nó, chúng nó sẽ trở nên như đờn bà! Gươm dao ở trên những kho tàng nó đều bị cướp giựt!
Rũhiũ rwa njora rũgookĩrĩra mbarathi, na ngaari cia ita, na andũ a ndũrĩrĩ arĩa marĩ ita-inĩ rĩake, nao matuĩke ta andũ-a-nja. Ningĩ rũhiũ rwa njora nĩrũgookĩrĩra indo ciao iria cia bata ciigĩtwo igĩĩna-inĩ ciao, nacio nĩigatahwo.
38 Sự hạn hán ở trên các dòng nước nó đều bị cạn khô! Vì ấy là xứ những tượng chạm, chúng nó vì thần tượng mà điên cuồng.
Nĩgũkaara riũa rĩa kũhũithia maaĩ makuo! Namo nĩmakaahũa biũ. Nĩgũkorwo ũcio nĩ bũrũri ũiyũrĩte ngai cia mĩhianano, nao andũ akuo nĩmagũrũkĩtio nĩyo.
39 Vậy nên, những thú rừng nơi sa mạc sẽ cùng chó rừng làm ở tại đó, những chim đà cũng choán làm chỗ ở mình; Ba-by-lôn sẽ không hề có dân cư nữa, vả từ đời nầy đến đời kia người ta sẽ không ở đó.
“Nĩ ũndũ ũcio nyamũ cia werũ-inĩ na hiti nĩcio igaatũũraga Babuloni, na kũu no kuo gũgaatũũrwo nĩ ndundu. Gũtigacooka gũtũũrwo nĩ andũ o na kana gũikarwo nĩ andũ, nginya njiarwa na njiarwa.
40 Ðức Giê-hô-va phán: Nó sẽ giống như Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và các thành lân cận, khi Ðức Chúa Trời hủy diệt các thành ấy; sẽ không có dân ở nữa, chẳng một con người nào đến trú ngụ đó.
O ta ũrĩa Ngai aangʼaũranirie Sodomu, na Gomora, o hamwe na matũũra marĩa maariganĩtie namo-rĩ, ũguo noguo gũtarĩ mũndũ ũgaatũũra kuo; gũtirĩ mũndũ ũgaikara kuo,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
41 Nầy, một dân đến từ phương bắc; một nước lớn và nhiều vua từ các phương đất rất xa bị xui giục.
“Atĩrĩrĩ, mbũtũ ya ita nĩ ĩrooka yumĩte mwena wa gathigathini; rũrĩrĩ rũnene, na athamaki aingĩ nĩmarahũrĩtwo kuuma ituri-inĩ cia thĩ.
42 Họ cầm cung và giáo, hung dữ chẳng có lòng thương xót. Tiếng họ giống như biển gầm; hỡi con gái Ba-by-lôn, họ đã cỡi ngựa mà đến, dàn trận để đánh ngươi.
Marooka marĩ na mota na matimũ mao; nao nĩ andũ ooru, na matarĩ tha. Mũrurumo wao nĩ ta mũrurumo wa ndiihũ cia maaĩ ma iria, magĩũka mahaicĩte mbarathi ciao; mokĩte meyarĩire wega mbaara-inĩ nĩguo magũtharĩkĩre, wee Mwarĩ ũyũ wa Babuloni.
43 Vua Ba-by-lôn đã nghe tin đó, thì tay người trở nên rả rời; sự buồn rầu bắt lấy người như cơn đau của người đờn bà đang đẻ.
Mũthamaki wa Babuloni nĩaiguĩte ũhoro wao, namo moko make makoorwo nĩ hinya. Nĩanyiitĩtwo nĩ ruo rũnene ngoro-inĩ yake, na ruo ta rwa mũndũ-wa-nja akĩrũmwo.
44 Nầy, kẻ thù như sư tử lên từ các rừng rậm rợp của Giô-đanh mà nghịch cùng chỗ ở kiên cố. Thình lình, ta sẽ làm cho người Canh-đê trốn khỏi, và lập người mà ta đã chọn cai trị nó. Vì, ai giống như ta? ai sẽ định kỳ cho ta? ai là kẻ chăn đứng được trước mắt ta?
O ta mũrũũthi ũũkĩte kuuma ihinga-inĩ cia Jorodani ũgakinya ũrĩithio-inĩ ũrĩa mũnoru-rĩ, ũguo noguo ngaingata Babuloni, oime bũrũri-inĩ wake o rĩmwe. Nũũ ũcio ũthuurĩtwo wĩra ũcio nĩgeetha ndĩmũtue wa kũũrũgamĩrĩra? Nũũ ũngĩ ũhaana ta niĩ, ningĩ-rĩ, nũũ ũngĩhota kũngararia? Ningĩ nĩ mũrĩithi ũrĩkũ ũngĩhota kũregana na niĩ?”
45 Vậy hãy nghe mưu Ðức Giê-hô-va đã toan nghịch cùng Ba-by-lôn, và ý định Ngài đã lập nghịch cùng đất người Canh-đê. Thật, những con nhỏ trong bầy chúng nó sẽ bị kéo đi, làm cho nơi ở chúng nó trở nên hoang vu!
Nĩ ũndũ ũcio, thikĩrĩriai mũigue ũndũ ũrĩa Jehova athugundĩte wa gũũkĩrĩra bũrũri wa Babuloni, o na ũrĩa atuĩte gwĩka bũrũri wa andũ a Babuloni: Arĩa anini rũũru-inĩ magaakururio, matwarwo kũndũ kũraya; nĩakananga ũrĩithio wao ũthire biũ nĩ ũndũ wao.
46 Nghe tiếng Ba-by-lôn bị bắt lấy, đất đều rúng động, và có tiếng kêu nghe ra giữa các người.
Mũrurumo wa Babuloni gũgĩtahwo nĩũgathingithia thĩ; kayũ ga kĩrĩro gĩakuo nĩgakaiguuo ndũrĩrĩ-inĩ.

< Giê-rê-mi-a 50 >