< I-sai-a 40 >
1 Ðức Chúa Trời của các ngươi phán rằng: Hãy yên ủi, hãy yên ủi dân ta.
Vahe'nimota mani so'e huta maniho, huno tamagri Anumzamo'a hu'ne.
2 Hãy nói cho thấu lòng Giê-ru-sa-lem, và rao rằng sự tranh chiến của nó đã trọn; tội lỗi nó đã được tha; nó đã chịu gấp hai từ tay Ðức Giê-hô-va vì các tội mình.
Jerusalemi vahe'mofona fru kefinti nanekea zamasamio, Hapima manita neaza zamo'a amare eme vagare hunka kezatinka zamasamio. Na'ankure Ra Anumzamo'a kumi'ma hu'naza zantera knazana ante agofetu huno ranknaza zamigahie. Hianagi menina maka kumi'zmia ko atrezmante'ne.
3 Có tiếng kêu rằng: Hãy mở đường trong đồng vắng cho Ðức Giê-hô-va; hãy ban bằng đường cái trong đất hoang cho Ðức Chúa Trời chúng ta!
Mago vahe'mofo ageru'mo kezatino amanage nehie, Ra Anumzamo'ma esania kana ka'ma kokampina retro nehuta, hagege kokampina Anumzamo'ma esania rankana varita eripehe hiho. (Matiu 3:3, Maki 1:3, Joni 1:23)
4 Mọi nơi sủng thấp sẽ được cao lên; mọi núi mọi gò sẽ bị hạ xuống; các nơi gập ghềnh sẽ làm cho bằng; các nơi dốc hãm sẽ làm thành đồng nội.
Ana nehutma maka urami erami hu'nesnia agupofina mopa kateta ante pehe nehutma, ranra agonaramine ne'onse agonaramina kafitma eri agupo nehutma, marerino tamino'ma hu'nesiama'a erinte fatgo hu so'e hiho.
5 Bấy giờ sự vinh hiển của Ðức Giê-hô-va sẽ hiện ra, và mọi xác thịt đều sẽ xem thấy; vì miệng Ðức Giê-hô-va đã phán vậy.
Anama hanageno'a Ra Anumzamofona hankavenentake masa'amo'a eama hanige'za, maka ama mopafima mani'naza vahe'mo'za kevagaregahaze. E'i ama ana nanekea Ra Anumzamo'a agra'a agipinti huama hu'ne. (Luk 3:4-6.)
6 Có tiếng kẻ rằng: Hãy kêu! Và có đáp rằng: Tôi sẽ kêu thế nào? Mọi xác thịt giống như cỏ, nhan sắc nó như hoa ngoài đồng.
Hagi mago kezankemo'a huno, Ranke hunka kezatio huno higeno, Na'ane huna kezatigahue huno magomo'a higeno, Maka ama mopafima mani'naza vahera trazankna hu'nazankino, tanopafi me'nea trazaramimo amosre aheteno rutri huramiaza huno, ra zamagima eneriza zamo'a fanene hugahie.
7 Cỏ khô, hoa rụng, vì hơi Ðức Giê-hô-va thổi qua. Phải, dân nầy khác nào cỏ ấy:
Trazamo'a hagege nehigeno, amosre'amo'a mopafi evuneramie. Na'ankure Ra Anumzamo'a agra'a zahora huhu hutregeno eno eme zamazeri tore hige'za mopafi evuneramize. Tamagerfa hu'za maka vahe'mo'za trazankna hu'naze.
8 cỏ khô, hoa rụng; nhưng lời của Ðức Chúa Trời chúng ta còn mãi đời đời!
Hanki trazamo'a hagege nehanigeno, trazamofo amosre'amo'a mopafi evuramigahie. Hianagi tagri Anumzamofo nanekemo'a, vaga oreno mevava hugahie. (1 Pita 1:24-25.)
9 Ai rao tin lành cho Si-ôn, hãy lên trên núi cao! Ai rao tin lành cho Giê-ru-sa-lem, hãy ra sức cất tiếng lên! Hãy cất tiếng lên, đừng sợ! Hãy bảo các thành của Giu-đa rằng: Ðức Chúa Trời của các ngươi đây!
Saioni rankumapinti'ma knare musenkema huama'ma nehana vahe'moka, agonarega marerinka kagerura erisga hunka hankavetinka ana musenkea huama huo. Jerusalemi rankumapima mani'neta musenkema huama'ma nehaza vahe'mota, korora osutma kezatitma, Juda mopafima me'nea rankumatmimpima nemaniza vahera tamagri Anumzana ama'nagi keho hutma zamasamiho!
10 Nầy, Chúa Giê-hô-va sẽ lấy quyền năng mà đến; Ngài dùng cánh tay mình và cai trị. Nầy, sự ban thưởng Ngài ở nơi Ngài, sự báo trả Ngài ở trước mặt Ngài.
Keho, Hihamu hankave'ane Ra Anumzamo'a egahiankino Agra'a hankave'areti vahera eme kegava hugahie. Ana hugahiankino mizama zamisia zana azampi eri'neno egahie.
11 Ngài sẽ chăn bầy mình như người chăn chiên; thâu các con chiên con vào cánh tay mình và ẳm vào lòng; từ từ dắt các chiên cái đương cho bú.
Sipisipi afu kva vahe'mo nehiaza huno, agra vahe'a kegava hu so'e nehuno, Sipisipi afute kva vahe'mo sipisipi afu anenta'a asagufinka avrenteaza huno, agra vahe'a asagufinka zamavarenenteno, anenta'ma ante'naza sipisipi afutamina akoheno zamavareno vugahie.
12 Ai đã lấy lòng bàn tay mà lường biển, lấy gang tay mà đo các từng trời? Ai đã lấy đấu mà đong bụi đất? Ai đã dùng cân mà cân núi, và dùng thăng bằng mà cân gò?
Hanki mago vahe'mo'a maka hagerina afino azampina erinteno refko'a huno kege, azamofo atumpa'aretira anteno mona refkoa huno kegahifi? I'za maka mopa kateno mago ekaeka kupina erinte vaga nereno, agonaramimofo kna'a erintenora refko huno negeno, ne'onse agonaramimofo kna'anena erinteno refko huno kegahie?
13 Ai lường được Thần của Ðức Chúa Trời, và làm mưu sĩ Ngài, đặng dạy Ngài điều gì?
Iza Ra Anumzamofo antahi'zana keno antahino nehuno, e'ina hunka maka zana trora huo hunora antahi'zana ami'ne?
14 Nào Ngài đã bàn luận với ai? Ai đã dạy khôn cho Ngài và dạy Ngài đường công nghĩa? Nào ai đã đem sự thông biết dạy Ngài và chỉ cho Ngài lối khôn ngoan?
Ra Anumzamo'a izampinti ama' antahi'zana enerino, antahintahi'zanena e'nerie? Antahi'zane fatgoma huno refkoma hu avu'ava zanena, iza rempia hunemie?
15 Kìa, các dân tộc khác nào một giọt nước nhỏ trong thùng, và kể như là một mảy bụi rơi trên cân; nầy, Ngài giở các cù lao lên như đồi vật nhỏ.
Tamagerfa huno ama mopafi vahe'ma Ra Anumzamo'ma zamageana, kavofinti timo osi'a pake huramiaza nehazageno, nanaza erinte'za kna'a negaza sigerire kugusopa meaza nehaze. Ana nehigeno hageri amu'nompima me'nea moparamina erinteno refko huno keana amne zankna hu'za osi kugusopagna hu'naze.
16 Rừng Li-ban chẳng đủ đốt lửa, những thú vật ở đó chẳng đủ làm của lễ thiêu.
Lebanoni mopafima ana maka mani'naza bulimakao afutminteti'ene, Lebanonima me'nea zafaramina ana maka antagita Ra Anumzamofontega tevefi kre fanane hu ofa huntegahaze. Hianagi anazamo'a Ra Anumzamo'ma antahi'nea kantera ovugahie.
17 Mọi dân tộc ở trước mặt Ðức Giê-hô-va thảy đều như không, Ngài xem như trống không và hư vô vậy.
Agri avurera mika ama mopafi vahe'mo'za amane zaga mani'naze. Agrama zamageana amane zagama zamageaza huno nezmage.
18 Vậy thì các ngươi có thể vì Ðức Chúa Trời với ai, lấy ảnh tượng nào mà so sánh với Ngài được?
Ina vahete huntenka Anumzanena mago avame hu'ne hunka hugahane? Inazamofo amema'amo agriknara hu'ne hunka hugahane?
19 Khi người thợ đúc tượng, thì thợ bạc lấy vàng mà bọc, và đúc cho những cái dây chuyền bằng bạc.
Mago'zamofo amema'a zafareti antreza tro hute'za golireti eri anovazinte'za silvareti seni nofira tro hu'za avasase'a hunte'naza havi anumzankna, Ra Anumzamo'a hu'nefi?
20 Kẻ nghèo không dâng nổi vật đó, thì chọn gỗ không mục được, và tìn thợ khéo đặng trổ một tượng không lay đổ.
Hagi amunte omane vahe'mo'a havi anumzamofo amema'ama miza segama osia vahe'mo'a hankave zafa erino ana zama tro'ma nehaza eri'za vahe amigeno, ana havi anumzamofo amema'a zafare antreno tro hutegeno erinte fatgo huno antegeno me'neno avugosaregatira mopafina evunoramie.
21 Các ngươi không biết sao? Vậy thì các ngươi không nghe sao? Người ta há chưa dạy cho các ngươi từ lúc ban đầu? Các ngươi há chẳng hiểu từ khi dựng nền đất?
Kagra ontahi'nampi? Kagrira onkasmi'nafi? Ra Anumzamo'ma mopamofo agafa'ama erigafa huno tro'ma hu'neazana kora kasamigenka ontahi'nampi?
22 Ấy là Ðấng ngự trên vòng trái đất nầy, các dân cư trên đất như cào cào vậy. Chính Ngài là Ðấng giương các từng trời ra như cái màn, và giương ra như trại để ở.
Ra Anumzamo'a kini tra'are monafi manisga huno mani'nege'za, ama mopafi vahe'mo'za kenu taminkna hu'naze. Anamifima me'nea monaramina, selinoma hiaza huno eri atarentegeno enevigeno, vahe'ma mani seli noma eri atareno kintegeno meaza huno noma'a kintene.
23 Chính Ngài là Ðấng làm tiêu diệt các quan trưởng và làm cho các quan xét trên đất ra hư không.
Ama mopafi kva vahetmina, Ra Anumzamo'a zamazeri fenkami atrege'za amane zankna nehaze.
24 Họ mới trồng, mới gieo, cây mới châm rễ trong đất, hơi Ðức Giê-hô-va thổi qua, thì khô héo; nầy, gió lốc đùa hết đi như rơm rác.
Mago vahe'mo mensintfa avimza avina vati krigeno rafu'namo zahufa mopafi uorami'negeno, Ra Anumzamo'a amuho nentake zaho atregeno ame huno eno ana avimza eri hagege higeno, kagikagi zaho'mo witi hona'ama eri harafi huno freaza nehaze.
25 Ðấng Thánh phán rằng: Vậy thì các ngươi sánh ta cùng ai? Ai sẽ bằng ta?
Ruotge'ma hu'nea Ra Anumzamo'a amanage huno nehie, Ina vahete hunteta nagrikna vahe mani'ne huta hugahaze?
26 Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo những vật nầy? Ấy là Ðấng khiến các cơ binh ra theo số nó, và đặt tên hết thảy; chẳng một vật nào thiếu, vì sức mạnh Ngài lớn lắm, và quyền năng Ngài rất cao.
Kavua kesga hunka monafima me'nea hanafitmina iza trora hu'nefi ko? Ra Anumzamo agrake tro huzmanteteno, nama'a hanafitami me'neana, ana maka keno antahino nehuno, mago magomofona agi'a amitere hu'ne. Agrira tusi'a hankave'a me'negu huno kegava higeno, mago'mo'e huno fananea nosie.
27 Vậy thì, hỡi Gia-cốp, sao ngươi nói, hãy Y-sơ-ra-ên, sao ngươi nói như vầy: Ðường tôi đã khuất khỏi Ðức Giê-hô-va, lý đoán tôi qua khỏi Ðức Chúa Trời tôi?
Hagi na'a higeta tamagra Israeli vahera Jekopu naga'mota amanage hutma ke hakarea nehaze, Ra Anumzamo'a knazantia nonkeno fatgo avu'avara hunorante hutma nehaze.
28 Ngươi không biết sao, không nghe sao? Ðức Chúa Trời hằng sống, là Ðức Giê-hô-va, là Ðấng đã dựng nên các đầu cùng đất, chẳng mỏi chẳng mệt; sự khôn ngoan Ngài không thể dò.
Tamagra ontahi'nazafi? Tamagrira ontamasami'nazafi? Ra Anumzamo'a fanane osuno manivava Anumza mani'ne. Ama mopafima maka zama me'nea zantamina, agrake tro hu'ne. Magore huno agrira kasrora ahege, avesra hugera osugahie. E'ina hu'neankino mago vahe'mo'a agri antahi'zana hakenora eri forera osugahie.
29 Ngài ban sức mạnh cho kẻ nhọc nhằn, thêm lực lượng cho kẻ chẳng có sức.
Hankavezmima omne'nea vahera Ra Anumzamo'a hankavea nezamino, hankavezamima omanegezama kasrokasarama nehaza vahera mago'ene hihamua sotu huno nezamie.
30 Những kẻ trai trẻ cũng phải mòn mỏi mệt nhọc, người trai tráng cũng phải vấp ngã.
Kasefa mofavreramimo'za zamavesra kosara hugahaze. Hankave kasefa vahe'mofonena hankavezmia omanesige'za traka hugahaze.
31 Nhưng ai trông đợi Ðức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cánh bay cao như chim ưng; chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi.
Hianagi Ra Anumzamofonte'ma, amuha nehu'za zamentintima nehaza vahe'mo'za, kasefa hankave eneri'za tumpamo hiaza hu'za haresga hu'za vano nehu'za, zamagama resnazana zmasafekura nosu'za, kama vanazana zamavesra osugahie.