< Ezekiel 16 >
1 Ket nagsao ni Yahweh kaniak a kunana,
Lại có lời Ðức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
2 “Anak ti tao, ipakaammom iti Jerusalem dagiti kinarimonna,
Hỡi con người, hãy làm cho Giê-ru-sa-lem biết những sự gớm ghiếc của nó.
3 ket ipakaammom, 'Kastoy ti kuna ti ni Yahweh nga Apo iti Jerusalem: Ti naggapuam ken ti nakaipasngayam ket iti daga ti Canaan; ti amam ket maysa nga Amoreo, ken ti inam ket maysa a Heteo.
Ngươi khá nói rằng: Chúa Giê-hô-va phán cùng Giê-ru-sa-lem như vầy: Bởi cội rễ và sự sanh ra của mầy ở đất Ca-na-an; cha mầy là người A-mô-rít, mẹ là người Hê-tít.
4 Idi aldaw a naipasngayka, saan a pinuted ti inam ti pusegmo, saannaka a binuggoan iti danum wenno lininisan babaen iti asin, wenno binungon.
Về sự mầy sanh ra, trong ngày mầy mới đẻ, rún mầy chưa cắt, chưa rửa mầy trong nước cho được thanh sạch, chưa xát bằng muối, chưa bọc bằng khăn.
5 Awan pulos mata a naasi kenka a mangaramid iti aniaman kadagitoy a banbanag kenka, tapno maasi kenka! Iti aldaw a naipasngayka, ket naumsi ti biagmo, naibellengka iti tay-ak.
Chẳng có mắt nào thương mầy, đặng làm một việc trong những việc đó cho mầy vì lòng thương xót mầy; song mầy đã bị quăng giữa đồng trống trong ngày mầy sanh ra, vì người ta gớm mầy.
6 Ngem limmabasak iti ayanmo, ket nakitaka nga agkusaykusay iti bukodmo a dara; isu a kinunak kenka a daradara, “Mabiagka pay!”
Khi ta qua gần mầy, thấy mầy tắm trong máu mình, ta phán cùng mầy rằng: Dầu ở giữa máu mầy, hãy sống! Thật, ta phán cùng mầy rằng: Dầu ở giữa máu mầy, hãy sống!
7 Pinadakkelka a kas iti mula iti tay-ak. Immaduka ken dimmakkelka, ken nagbalinka nga alahas a pang-arcos. Napasayaat dagiti susom ken immatiddog dagiti buokmo, nupay lamolamoka ken awan abbongmo.
Ta đã làm cho mầy thêm nhiều ra, như vật đồng ruộng mọc lên. Mầy đã nẩy nở, lớn lên, và trở nên đẹp đẽ lắm. Vú mầy dậy lên, tóc mầy dài ra, nhưng hãi còn ở lỗ và trần truồng.
8 Limmabasak manen iti ayanmo ket minatmatanka. Ket nakitak a dimtengen ti tiempo ti panagayatmo, isu nga inyukradko ti kagayko kenka ket inabbongak ti kinalamolamom. Ket nagsapataak kenka ken nakitulagak kenka—kastoy ti pakaammo ni Yahweh nga Apo—ket nagbalinka a kukuak.
Khi ta qua gần mầy, và nhìn mầy, nầy, tuṀ-i mầy nầy, mầy -ã đến tuổi yêu mến. Ta lấy áo ngoài ta trùm trên mầy, che sự trần truồng mầy. Phải, ta thề cùng mầy và kết giao ước với mầy, thì mầy trở nên của ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
9 Isu a diniguska iti danum ken binuggoak ti daram, ket sinapsapoanka iti lana.
Ta rửa mầy trong nước, làm cho sạch máu vấy mình mầy, và xức dầu cho.
10 Kinawesanka iti nabordaan a pagan-anay ken sinandaliasanka iti lalat; binungonka iti napintas a lino ken inabbonganka iti seda.
Ta mặc áo thêu cho mầy, cho mầy mang giày sắc lam, thắt lưng mầy bằng vải gai mịn, đắp cho mầy bằng hàng lụa.
11 Kalpasanna ket inarkusanka kadagiti alahas, ken kinabilak kadagiti pulseras dagiti imam, ken kuwentas ti tengngedmo.
Ta lấy đồ trang sức giồi cho mầy, xỏ vòng vào tay, mang kiềng vào cỡ,
12 Kinabilak iti singsing ti agongmo ken kadagiti aritos dagiti lapayagmo, ken iti napintas a korona ti ulom.
tra khoen nơi mũi, đeo hoa vào tai, và đội mão đẹp trên đầu mầy.
13 Kastoy ti pannakaarkusmo iti balitok ken pirak, ken nakawesanka iti nasayaat a lino, seda, ken nabordaan a pagan-anay; nangnanganka iti nasayaat nga arina, diro, ken lana, ken pimmintaska iti kasta unay, ket nagbalinka a reyna.
Như vầy, mầy được trang sức bằng vàng bằng bạc; áo xống của mầy bằng vải gai mịn, bằng hàng lụa, bằng đồ thêu; mầy nuôi mình bằng bột mì lọc, bằng mật ong và bằng dầu. Mầy đã trở nên cực đẹp, và thạnh vượng đến nỗi được ngôi hoàng hậu.
14 Nagdinamag ti kinalatakmo kadagiti nasion gapu iti kinapintasmo, ta awan pagkurangan ti pintasmo iti kinadaeg nga intedko kenka— kastoy ti pakaammo ni Yahweh nga Apo.
Danh tiếng mầy lừng lẫy trong các nước bởi sắc đẹp mầy; vì sự đẹp là toàn vẹn bởi oai nghi của ta mà ta đã đặt trên mầy, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
15 Ngem nagtalekka iti bukodmo a pintas ken nagtigtignayka a kas iti balangkantis gapu iti kinalatakmo; imbukbokmo ti panagbalbalangkantismo kadagiti amin a lumabas. Nagbalinka a sanikua dagidiay a lallaki!
Nhưng mầy cậy sắc đẹp mình; cậy danh tiếng mình mà buông sự dâm dục, hành dâm cùng mọi kẻ trải qua, phó mình mầy cho nó.
16 Ket innalam dagiti badom ken nagaramidka manipud kadagitoy kadagiti disso a pagdaydayawam a naarkosan iti agduduma a maris, ken nagtigtignayka a kasla balangkantis kadakuada. Daytoy ket saanton a dumteng! Saanton a mapasamak ti kastoy!
Mầy dùng áo xống mình, trang sức nhiều mùi, và làm sự dâm loạn tại đó; đều ấy sẽ chẳng đến, cũng sẽ chẳng có bao giờ.
17 Innalam dagiti napipintas nga alahas a balitok ken pirak nga intedko kenka ket sinukogmo nga imahen dagiti lallaki a maipaay kenka, ket inaramidmo kadagitoy ti kas iti ar-aramiden ti balangkantis.
Mầy cũng đã lấy những đồ trang sức trọng thể, làm bằng vàng và bạc mà ta đã ban cho mầy; mầy dùng làm hình người nam, rồi hành dâm với nó.
18 Innalam dagiti nabordaan a pagan-anaymo ket inkawesmo kadagitoy, ken indatagmo dagiti lanak ken bangbanglok iti sangoananda.
Mầy lấy áo xống thêu của minh mà đắp cho chúng nó, lấy dầu và hương của ta bày ra trước mặt chúng nó.
19 Ken ti tinapayko a naaramid manipud iti nasayaat nga arina, lana, ken diro nga intedko kenka—a pinangtaraonko kenka! —indasarmo dagitoy kadakuada tapno mangipaay iti nabanglo nga ayamuom. Pudno a napasamak daytoy! —kastoy ti pakaammo ni Yahweh nga Apo.
Bánh mà ta đã ban cho mầy, bột mì lọc, dầu, và mật ong mà ta cho mầy ăn, thì mầy đem mà bày ra hết trước mặt chúng nó, để làm mùi thơm tho. Thật, có sự ấy, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
20 Ket innalam dagiti annakmo a lallaki ken babbai nga impasngaymo a maipaay kaniak, ket indatonmo ida kadagiti imahen tapno alun-unenda a kas taraon. Bassit kadi laeng a banag ti panagbalbalangkantismo?
Mầy đã bắt những con trai con gái mà mầy đã sanh ra cho ta, đem dâng cho chúng nó đặng nuốt đi. Những sự dâm ô đó há phải là nhỏ mọn sao?
21 Pinataymo dagiti annakko ket pinuoram ida nga indaton kadagiti imahen a kas sakripisio.
Mầy đã giết con cái ta, và đã đưa qua trên lửa mà nộp cho chúng nó.
22 Kadagiti amin a kinarimonmo ken kadagiti panagtigtignaymo a kas balangkantis, saanmo a pinanunot ti maipanggep kadagiti aldaw ti kinaagtutubom, idi a lamolamoka ken awan abbongmo nga agkusaykusay iti daram.
Giữa mọi sự gớm ghiếc và sự tà dâm mầy, mầy không nhớ lúc còn thơ trẻ, khi mầy hãi còn ở lỗ, truồng trần hết cả, tắm trong máu mình.
23 Asi pay! Asika pay! —kastoy ti pakaammo ni Yahweh nga Apo—ngarud, kas kanayunan kadagitoy amin a kinadangkesmo,
Chúa Giê-hô-va phán: Khốn nạn, khốn nạn cho mầy! sau khi mầy làm mọi sự dự ấy,
24 nangbangonka pay iti disso a pangannongam iti seremonia, ken iti disso a pagdaydayawan kadagiti didiosen iti tunggal pangpubliko a lugar.
lại xây vòng khung cho mình, dựng nơi cao cho mình trên mọi đường phố.
25 Nangbangonka kadagiti disso a pagdaydayawan kadagiti didiosen iti pangrugian ti tunggal dalan ket inaramidmo a nakarimrimon ti kinapintasmo, ta inkayangmo dagiti sakam iti tunggal lumabas ken nagar-aramidka kadagiti ad-adu pay a panagbalangkantis.
Nơi lối vào các đường phố, mầy xây nơi cao mình, và đã làm cho sự đẹp đẽ mầy nên gớm ghiếc, mầy đã nộp mình cho mọi người đi qua, và thêm nhiều sự tà dâm mầy.
26 Nagtigtignayka a kas balangkantis kadagiti taga-Egipto, a kaarubam nga addaan kadagiti napalalo a dinederrep a tartarigagay, ken nagar-aramidka kadagiti ad-adu pay nga ar-aramid iti panagbalangkantis isu a napaungetnak.
Mầy đã hành dâm với những người Ê-díp-tô, là người lân cận mầy có thân thể mạnh mẽ, mầy đã thêm nhiều sự tà dâm đặng chọc giận ta.
27 Isu a kitaem! Kabilenka babaen iti imak ken saankan nga ipaayan iti taraon. Iyawatko ti biagmo kadagiti kabusormo nga annak dagiti Filisteo tapno maibabainka gapu iti dinederrep a kababalinmo.
Vậy, ta đã giang tay ta trên mầy; bớt phần đã chỉ định cho mầy, và phó mầy cho ý muốn của kẻ ghét mầy, tức các con gái Phi-li-tin, chúng nó đã mắc cỡ về sự hành dâm của mầy.
28 Nagtigtignayka a kas iti balangkantis kadagiti taga-Asiria gapu ta saanka a mapnek. Nagtigtignayka a kas iti balangkantis ngem saanka latta a mapnek.
Mầy cũng đã hành dâm cùng những người A-si-ri, vì mầy không no chán. Sau khi đã phạm tội tà dâm với chúng nó, mầy còn chưa no chán.
29 Ken nangar-aramidka kadagiti ad-adu pay nga ar-aramid ti panagbalangkantis iti daga dagiti agtagtagilako iti Caldea, ket uray ti panangaramidmo iti daytoy ket saannaka a napennek.
Vả, mầy đã thêm nhiều sự dâm dục với đất Ca-na-an cho đến Canh-đê, thế mà mầy cũng chưa no chán!
30 Apay a nakapsut unay ta pusom? — kastoy ti pakaammo ni Yahweh nga Apo— ta inaramidmo amin dagitoy a banbanag nga aramid ti balangkantis ken awan babainna a babai?
Chúa Giê-hô-va phán: Ôi! lòng mầy luốt lát là dường nào, mầy phạm mọi việc đó, là việc của đờn bà tà dâm không biết xấu.
31 Idi nangbangonka kadagiti disso a pangannongam iti seremonia iti pangrugian ti tunggal dalan ken nangaramidka kadagiti altar a pagdaydayawan kadagiti didiosen iti tunggal pangpubliko a lugar, nalablabeska ngem iti balangkantis, agsipud ta nagkedkedka nga umawat iti bayad dagiti aramidmo!
Khi mầy xây vòng khung mình nơi lối vào mỗi đường, dựng nơi cao trên mỗi đường phố, mầy không giống như đứa điếm đĩ, bởi mầy khinh tiền công;
32 Sika a mannakikamalala a babai, dagiti ganggannaet ti aw-awatem imbes a ti asawam!
mầy là đờn bà ngoại tình, tiếp người lạ thay vì chồng mình.
33 Dagiti tattao ti mangbaybayad kadagiti balangkantis, ngem sika ti mangbaybayad kadagiti kaayan-ayatmo ken pasuksukam ida tapno umayda makikaidda kenka dagiti adda iti aglawlawmo gapu iti kinabalangkantismo.
Hễ là đứa điếm đĩ thì được tiền công; nhưng mầy thì dâng lễ vật cho hết thảy tình nhơn mầy; mầy đã hối lộ cho chúng, để chúng đến tư bề mà hành dâm với mầy.
34 Isu nga adda ti naidumaam kadagidiay a babbai, agsipud ta awan ti umay kenka tapno dawatenda a makikaiddaka kadakuada. Ngem ketdi, sika ti mangbaybayad kadakuada! Awan ti mangbaybayad kenka.
Mầy đã làm trái với đờn bà khác trong sự tà dâm mầy, vì người ta không tìm mầy; và mầy trả tiền công, còn người ta không cho mầy chi hết. Ấy là mầy trái với những kẻ khác!
35 Ngarud, sika a balangkantis, dumngegka iti sao ni Yahweh!
Vậy nên, hỡi kẻ điếm đĩ, hãy nghe lời của Ðức Giê-hô-va.
36 Kastoy ti kuna ni Yahweh nga Apo: Gapu ta imparukpokmo ti kinaderrepmo ken impakitam dagiti nalimed a paset ti bagim babaen iti panagbalbalangkantismo kadagiti amin a kaayan-ayatmo ken kadagiti amin a makarimon a didiosen, ken gapu iti dara dagiti annakmo nga intedmo kadagiti didiosem;
Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì cớ mầy đã đổ ra sự ô uế, tỏ ra sự trần truồng bởi sự hành dâm với tình nhơn mầy; và vì cớ mọi thần tượng gớm ghiếc của mầy, cũng vì cớ máu con cái mầy đã dâng cho chúng nó,
37 ngarud, adtoy! Ummongekto dagiti amin a kaayan-ayatmo a naam-ammom, amin dagidiay nga inay-ayatmo ken amin dagidiay a kinaguram, ummongekto amin ida iti aglawlawmo a maibusor kenka. Ipakitakto dagiti nalimed a paset ti bagim kadakuada tapno makitada amin a kinalamolamom!
cho nên, nầy, ta sẽ nhóm hết thảy tình nhơn mầy, tức những kẻ mầy ưa thích, mọi kẻ mầy yêu, mọi kẻ mầy ghét; ta sẽ nhóm chúng nó từ mọi bề đến nghịch cùng mầy; ta sẽ lột truồng mầy cho chúng nó, chúng nó sẽ thấy hết.
38 Ta dusaenkanto gapu iti pannakikamalalam ken panangipasayasaymo iti dara, ket iyegkonto kenka ti panangipasayasay iti dara gapu iti pungtot ken ungetko!
Ta sẽ đoán phạt mầy như đoán phạt đờn bà bội chồng và làm đổ máu; ta sẽ lấy máu của sự giận dữ và ghen tương mà đổ trên mầy.
39 Iyawatkanto kadagiti imada tapno rebbaenda dagiti disso a pangan-annongam iti seremonia ken dagiti altar a pagdaydayawam kadagiti didiosen, ken labusandakanto ken alaenda dagiti amin nga alahasmo; panawandakanto a lamolamo ken awan abbongna.
Ta cũng sẽ phó mầy vào tay chúng nó: chúng nó sẽ phá vòng khung và đổ các nơi cao của mầy; lột áo xống mầy, để mầy ở lỗ và truồng trần.
40 Ket mangiyegdanto iti adu a tattao a bumusor kenka ket uborendakanto ken rangrangkayendakanto babaen kadagiti kampilanda.
Chúng nó sẽ khiến một lũ người lên nghịch cùng mầy, ném đá mầy và đâm mầy bằng gươm.
41 Ken puorandanto dagiti babbalaymo ken pagaramidandakanto kadagiti adu a kita ti pannusa iti imatang dagiti adu a babbai, ta pasardengenkanto iti panagbalangkantismo, ken saanmonton a bayadan ti siasinoman kadakuada!
Chúng nó sẽ lấy lửa đốt nhà mầy, đoán xét mầy trước mắt nhiều đờn bà; ta sẽ làm cho mầy hết hành dâm và mầy cũng không cho tiền công nữa.
42 Ket pagbaawekto ti pungtotko kenka; panawandakanto ti ungetko, ta mapnekakto, ken saanakton nga agunget.
Vậy thì cơn giận ta sẽ dứt, sự ghen tương ta lìa khỏi mầy, và ta yên lặng, không giận nữa.
43 Gapu ta saanmo a linagip dagiti aldaw iti kinaagtutubom idi a pinagkintayegnak gapu iti ungetko kadagitoy amin a banbanag—adtoy!, siak a mismo ti mangiyeg iti pannusa iti bukodmo nga ulo gapu kadagiti inaramidmo —kastoy ti pakaammo ni Yahweh nga Apo—iti kasta, saankanton nga agaramid iti dakes iti amin a makarimon a wagasmo!
Vì mầy không nhớ lúc mình còn thơ bé, và đã nóng giận nghịch cùng ta trong mọi việc; cho nên, nầy, ta cũng sẽ làm cho đường lối mầy lại đổ trên đầu mầy, Chúa Giê-hô-va phán vậy; mầy sẽ không thêm sự hành dâm nầy vào mọi sự gớm ghiếc mầy nữa.
44 Adtoy! Ibaganto dagiti amin nga agsasao kadagiti proberbio maipapan kenka, “No ania ti ina, kasta met ti anakna a babai.”
Phàm người hay dùng tục ngữ, sẽ lấy câu tục ngữ nầy mà nói về mầy: Mẹ thế nào, con gái thế ấy!
45 Sika ti anak a babai ti inam a nanggulib iti asawana ken kadagiti annakna; ken sika ti kabsat a babai dagiti kakabsatmo a babbai a nanggulib kadagiti assawada ken kadagiti annakda. Maysa a Heteo ti inam ken maysa nga Amoreo ti amam!
Mầy là con gái của mẹ mầy, mẹ mầy đã chán bỏ chồng con mình; mầy là em các chị mầy, các chị mầy đã chán bỏ chồng con mình; mẹ mầy là người Hê-tít, và cha mầy là người A-mô-rít.
46 Ti inauna a kabsatmo a babai ket ti Samaria ken dagiti annakna a babbai ket dagiti agnanaed iti amianan, idinto a ti inaudi a kabsatmo a babai ket dagiti agnanaed iti abagatam, nga isu ti Sodoma ken dagiti annakna a babbai.
Chị mầy là Sa-ma-ri cũng các con gái nó, ở bên tả mầy; em mầy là Sô-đôm cùng các con gái nó, ở bên hữu mầy.
47 Ita, saanka a magna kadagiti dalanda wenno kadagiti makarimon nga aramidda, a kasla dagitoy ket babassit unay a banbanag. Pudno, kadagiti amin a wagasmo nagbalinka a nalablabes ngem iti nagbalinanda.
Còn mầy không bước đi trong đường chúng nó, và không phạm những sự gớm ghiếc giống nhau; mầy cho điều đó là nhỏ mọn, nhưng mầy đã tự làm ra xấu hơn chúng nó trong mọi đường lối mầy nữa.
48 Iti naganko a sibibiag a Dios—kastoy ti pakaammo ni Yahweh nga Apo— ti Sodoma a kabsatmo a babai ken dagiti annakna a babbai, ket saan a nakaaramid kadagiti kas iti kadakes dagiti inaramidmo ken dagiti annakmo a babbai!
Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, Sô-đôm, em mầy, chính mình nó và con gái nó chưa từng làm sự mầy và con gái mầy đã làm.
49 Adtoy! Daytoy ti basol ti kabsatmo a babai a ti Sodoma: natangsit isuna iti kinawayana, saan a naannad ken awan bibiangna kadagiti banbanag. Saanna a pinapigsa dagiti ima dagiti nakurapay ken agkasapulan a tattao.
Nầy, đây là sự gian ác của em gái mầy là Sô-đôm và các con gái nó: ở kiêu ngạo, ăn bánh no nê, và ở nể cách sung sướng; nó lại không bổ sức cho tay kẻ nghèo nàn và thiếu thốn.
50 Natangsit isuna ken nagar-aramid kadagiti makarimon iti sangoanak, isu nga inikkatko ida a kas iti nakitam.
Chúng nó đã trở nên cao ngạo, phạm những sự gớm ghiếc trước mặt ta; nên ta đã trừ chúng nó đi, vừa khi ta thấy mọi điều đó.
51 Uray ti Samaria ket saan a nakaaramid iti uray man laeng koma kagudua dagiti basbasol nga inaramidmo; ngem ketdi, nangaramidka kadagiti ad-adu a makarimon a banbanag ngem kadagiti inaramidda, ket impakitam a nasaysayaat dagiti kakabsatmo a babbai ngem sika gapu kadagiti amin a makarimon a banbanag nga inaramidmo!
Sa-ma-ri chưa phạm đến phân nửa tội mà mầy đã phạm; mầy đã thêm nhiều sự gớm ghiếc hơn nó, và bởi những sự gớm ghiếc mầy đã phạm, thì chị em mầy con được kể là công bình.
52 Nangnangruna kenka, ipakitam ti bukodmo a pannakaibabain; iti kastoy a wagas, impakitam a nasaysayaat dagiti kakabsatmo a babbai ngem sika, gapu kadagiti basbasol nga inaramidmo kadagidiay amin a makarimon a wagas. Kasla nasaysayaat itan dagiti kakabsatmo a babbai ngem sika. Nangnangruna kenka, ipakitam ti bukodmo a pannakaibabain, ta iti kastoy a wagas, impakitam a nasaysayaat dagiti kakabsatmo a babbai ngem sika.
Mầy xét đoán chị em mầy, ấy là mầy chuốc lấy sự xấu hổ mình. Vì cớ tội lỗi mầy còn là đáng gớm hơn chúng nó, thì chúng nó là công bình hơn mầy. Vậy, mầy cũng hãy mang nhơ chịu hổ, vì mầy đã làm cho chị em mầy được kể là công bình!
53 Ta isublikto dagiti kinabaknangda—dagiti kinabaknang ti Sodoma ken dagiti annakna a babbai, ken dagiti kinabaknang ti Samaria ken dagiti annakna a babbai; ngem dagiti kinabaknangmo ket addanto kadakuada.
Ta sẽ đem những phu tù của Sô-đôm và các con gái nó trở về, đem những phu tù của Sa-ma-ri và các con gái nó trở về, cũng đem các phu tù của mầy ở giữa chúng nó trở về nữa;
54 Kadagitoy a banbanag ket ipakitamto ti pannakaibabainmo; maibabainkanto gapu kadagiti banbanag nga inaramidmo, ken iti kastoy a wagas ket agbalinkanto a liwliwa kadakuada.
để mầy mang nhuốc mình, và chịu hổ về mọi điều mầy đã làm, vì đã làm cho chúng nó được yên ủi.
55 Isu a maisublinto dagiti kakabsatmo a babbai a Sodoma ken dagiti annakna a babbai kadagiti sigud a kasasaadda, ken uray ti Samaria ken dagiti annakna a babbai ket maisublinto met iti sigud a kasasaadda. Ket sika ken dagiti annakmo a babbai ket maisublinto met iti sigud a kasasaadyo.
Chị em mầy, Sô-đôm và con gái nó, sẽ trở lại như khi xưa. Sa-ma-ri cùng con gái nó cũng trở lại như khi xưa. Mầy cùng con gái mầy cũng sẽ trở lại như khi xưa.
56 Uray ti kabsatmo a Sodoma ket saan a dinakamat ti ngiwatmo kadagidi aldaw a naparammagka,
Trong ngày mầy kiêu ngạo, miệng mầy chẳng nhắc đến tên Sô-đôm, em mầy;
57 sakbay a naibutaktak ti kinadangkesmo. Ngem ita ket maysaka a banag a pagang-angawan dagiti annak a babbai ti Edom ken dagiti amin nga annak a babbai dagiti Filisteo nga adda iti aglawlawna. Umsiendakanto dagiti tattao iti aglawlawmo.
lúc đó sự dự của mầy chưa lộ ra, mầy còn chưa bị những lời nhiếc móc của con gái Sy-ri và hết thảy các xứ lân cận, của các con gái Phi-li-tin nó khinh dể mầy tư bề.
58 Ipakitamto ti pannakaibabainmo ken dagiti makarimon nga aramidmo! —kastoy ti pakaammo ni Yahweh!
Mầy đã mang lấy sự hành dâm và sự gớm ghiếc của mầy, Ðức Giê-hô-va phán vậy.
59 Kastoy ti kuna ni Yahweh nga Apo: Tratoenka a kas iti panangtratok iti siasinoman a mangumsi iti insapatana tapno madadaelna ti katulagan.
Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Mầy đã khinh dể lời thề mà dứt bỏ giao ước ta, ta sẽ đối đãi mầy như mầy đã làm.
60 Ngem siak a mismo ket lagipekto ti nagtulaganta kadagidi aldaw ti kinaagtutubom, ket mangipasdekakto iti agnanayon a katulagak kenka.
Dầu vậy, ta sẽ nhớ lại giao ước ta đã lập với mầy đương ngày mầy thơ bé, ta vì mầy sẽ lập một giao ước đời đời.
61 Ket malagipmonto dagiti wagasmo ket mababainkanto inton awatem dagiti inauna a kakabsatmo a babbai ken dagiti inaudi a kakabsatmo a babbai. Itedkonto ida kenka a kas annakmo a babbai, ngem saan a gapu iti nakitulagam kaniak.
Khi mầy sẽ nhận lấy những chị em mầy, mầy sẽ nhớ lại đường lối mình mà hổ thẹn; bấy giờ ta sẽ trao chúng nó cho mầy làm con gái, nhưng không cứ theo giao ước mầy.
62 Siak a mismo ket ipasdekkonto ti tulagko kenka, ket maammoamto a Siak ni Yahweh!
Ta sẽ lập giao ước ta với mầy, mầy sẽ biết ta là Ðức Giê-hô-va;
63 Gapu kadagitoy a banbanag, malagipmonto amin a banbanag ket agbainkanto, isu a saanmonto nga iyungap ta ngiwatmo tapno agsao gapu iti bainmo, inton pakawanenka gapu kadagiti amin nga inaramidmo—kastoy ti pakaammo ni Yahweh nga Apo.'”
hầu cho mầy được nhớ lại và hổ ngươi; vì chớ sự xấu hổ mầy, mầy chẳng còn mở miệng nữa, khi ta đã tha thứ mọi điều mầy đã làm, Chúa Giê-hô-va phán vậy.